Cùng với việc ta thúc ép Phnom Penh đi vào “ giải pháp Đỏ
”, việc ta thoả thuận với Trung Quốc công thức SNC tại Thành Đô là không
phù hợp với nguyên tắc nhất quán của Đảng ta là không can thiệp và
không quyết định các vấn đề nội bộ của Campuchia, làm tăng mối nghi ngờ
vốn có của Campuchia đối với ta, đi ngược lại chủ trương tăng cường và
củng cố mối quan hệ với ta với Campuchia và Lào.”
Hồi ký "Hồi Ức và Suy Nghĩ" của Trần Quang Cơ
nhà báo Trần Quang Thành giới thiệu
LỜI GIỚI THIỆU: Từ đầu năm 2004, giới cán bộ ngoại giao rồi giới
trí thức ở Việt Nam đã chuyền tay nhau tập hồi ký Hồi ức và Suy nghĩ của
ông Trần Quang Cơ, nguyên Thứ trưởng Ngoại giao. Tập hồi ký 82 trang
(khổ A4, viết xong lần thứ nhất năm 2001, hoàn thành tháng 5-2003) chưa
được xuất bản công khai. Với nội dung phong phú, chính xác và trung
thực, tác giả cung cấp những thông tin quý hiếm về những vấn đề Việt Nam
đương đại.
Tác giả làm việc ở Bộ ngoại giao từ năm 1954. Năm 1968 ông tham gia
Hội nghị Paris (1968-1973), cuộc đàm phán về bình thường hoá quan hệ
với Mỹ (1975-1978) và các cuộc thương lượng giải quyết vấn đề Campuchia
(thập niên 80-90 thé ký 20). Năm 1991, được đề nghị làm Bộ trưởng Ngoại
giao thay thế ông Nguyễn Cơ Thạch, ông viện lý do “sức khoẻ” để từ chối.
Cuối năm 1993, ông xin rút khỏi Ban chấp hành Trung ương Đảng.
Những tư liệu dưới đây trích trong cuốn hồi ký Hồi ức và Suy nghĩ
của ông Trần Quang Cơ là những thông tin rất quan trọng nói lên sự thật
về quan hệ đối ngoại của Việt Nam trong một giai đoạn khó khăn, đồng
thời về những bất đồng trong nội bộ lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam.
Trong lịch sử ngoại giao Việt Nam kể từ sau sự kiện ngày 30-04-1975
đến hôm nay, sự kiện hội nghị bí mật Thành Đô tháng 9-1990 giữa hai
đoàn đại biểu cấp cao hai nước Việt – Trung để bình thường hóa quan hệ
là một thất bại nhục nhã của Việt Nam chuyển con đường phát triển của
nước dẫn đến tình hình một lần nữa Trung Quốc lại trở thành mối uy hiếp
trực tiếp và nguy hiểm nhất đối với độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh
thổ và con đường phát triển của Việt Nam.
Hàng trước từ trái sang: Hoàng Bích
Sơn, trưởng ban đối ngoại T.Ư.(1), Phạm Văn Đồng, cố vấn BCHTƯ (3),
Nguyễn Văn Linh, tổng bí thư (4), Giang Trạch Dân (5), Lý Bằng (6), Đỗ
Mười (7), Hồng Hà (9)
Cuộc gặp Thành Đô giữa lãnh đạo Trung-Việt (3-9-1990).
Nội dung các tư liệu này nêu bật trách nhiệm nặng nề của hai ông
Nguyễn Văn Linh và Lê Đức Anh vào đầu thập niên 1990 (lúc đó là Tổng bí
thư và Bộ trưởng Quốc phòng) trong quan hệ với Bắc Kinh về việc giải
quyết vấn đề Campuchia và bình thường hóa quan hệ Việt Trung
Vể cuộc gặp cấp cao Việt – Trung ở Thành Đô diễn ra hai ngày 3 và
4/9/1990, trong hồi ký Hồi ức và Suy nghĩ, ông Trần Quang Cơ viết :
“Cuộc gặp cấp cao Việt – Trung tại Thành Đô : Ngày 29.8.90, đại sứ
Trương Đức Duy xin gặp gấp Tổng Bí Thư Nguyễn Văn Linh và Thủ tướng Đỗ
Mười chuyển thông điệp của Tổng Bí Thư Giang Trạch Dân và Thủ tướng Lý
Bằng mời Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh, Thủ tướng Đỗ Mười và Cố vấn Phạm
Văn Đồng sang Thành Đô , thủ phủ tỉnh Tứ Xuyên Trung Quốc ngày 3.9.90
để hội đàm bí mật về vấn đề Campuchia và vấn đề bình thường hoá quan hệ
hai nước. Trương nói mập mờ là Đặng Tiểu Bình có thể gặp anh Tô (Cố vấn
Phạm Văn Đồng). Trung Quốc còn lấy cớ ở Bắc Kinh đang bận chuẩn bị tổ
chức ASIAD (Á Vận hội) nên không gặp cấp cao Việt Nam ở thủ đô Bắc Kinh
được vì khó giữ được bí mật, mà gặp ở Thành Đô."
Theo ông Trần Quang Cơ :
"Đây quả là một sự chuyển biến đột ngột của phía Trung Quốc. Trước
đây Trung Quốc nói không chỉ sau khi giải quyết xong vấn đề Campuchia
mới gặp cấp cao ta và mới bàn vấn đề bình thường hoá quan hệ. Năm ngày
trước – ngày 24.8.90 – Trung Quốc còn bác bỏ việc gặp cấp cao, nay lại
mời ta gặp cấp cao trong một thời hạn rất gấp và đồng ý cấp cao sẽ nói
chuyện về cả hai vấn đề Campuchia và vấn đề bình thường hoá quan hệ".
Thái độ “ thiện chí ” gấp gáp như vậy của Bắc Kinh không phải tự
nhiên mà có. Nó có những nguyên nhân sâu xa và nhân tố bức bách :
a. Tất cả những hoạt động đối ngoại và đối nội của Trung Quốc trong
hơn 10 năm qua khẳng định chiến lược nhất quán của họ là kiên quyết
thực hiện “ 4 hiện đại ”, biến Trung Quốc thành một cường quốc hàng đầu
trên thế giới, đồng thời xác định vị trí nước lớn của mình trước hết ở
Đông Nam Á và châu Á - Thái Bình Dương. Vì lợi ích chiến lược đó, Trung
Quốc kiên trì tranh thủ Mỹ, Nhật, phương Tây, đồng thời bình thường hoá
quan hệ với Liên Xô.
Nhưng sau hơn 10 năm cải cách và mở cửa, tình hình chính trị, xã
hội và kinh tế của Trung Quốc rất khó khăn. Sau sự kiện Thiên An Môn,
mục tiêu chiến lược đó đang bị đe doạ nghiêm trọng. Về đối ngoại, bị Mỹ,
Nhật và phương Tây thi hành cấm vận. Trong khi đó, quá trình cải thiện
quan hệ Mỹ-Xô tiến triển rất nhanh. Xô-Mỹ hợp tác chặt chẽ giải quyết
các vấn đề thế giới và khu vực không kể đến vai trò của Trung Quốc. Ngay
trong vấn đề Campuchia, vai trò Trung Quốc cũng bị lấn át (Xô-Mỹ tiếp
xúc trao đổi chặt chẽ về vấn đề Campuchia, cuộc gặp Sihanouk – Hun Xen ở
Tokyo là do sự dàn xếp của Mỹ, Nhật và Thái, ngoài ý muốn của Trung
Quốc). Phương Tây tiếp tục đòi Trung Quốc thực hiện dân chủ và giải
quyết vấn đề Campuchia trên cơ sở kiềm chế Khmer Đỏ.
b. Chuyến đi Đông Nam Á của Lý Bằng (6-13.8.90) nằm trong yêu cầu
chiến lược của Trung Quốc tranh thủ hoàn cảnh quốc tế hoà bình để thực
hiện “ 4 hiện đại ”, diễn ra trong bối cảnh liên minh Trung Quốc xây
dựng ở Đông Nam Á trong 10 năm qua để chống Việt Nam đang tan vỡ sau khi
Việt Nam rút quân khỏi Campuchia và sau khi Mỹ đã điều chỉnh chính
sách. Cuộc đi thăm của Lý đã bộc lộ những điểm đồng và bất đồng giữa
Trung Quốc và các nước ASEAN. Các nước ASEAN vẫn rất lo ngại lý do bành
trướng của Trung Quốc. Trung Quốc buộc phải cam kết nội bộ các nước
trong khu vực, ủng hộ các đảng cộng sản và vấn đề Hoa kiều, tuyên bố sẵn
sàng thương lượng và hợp tác về vấn đề Trường Sa. Tiếp tục đối đầu với
Việt Nam không còn phù hợp với chính sách Đông Nam Á của Trung Quốc lúc
này nữa.
c. Sau khi Việt Nam đã hoàn tất việc rút quân khỏi Campuchia, các
nước phương Tây, Mỹ, Nhật, ASEAN đi vào cải thiện quan hệ với ta theo
hướng không có lợi cho tính toán của Trung Quốc ở Đông Nam Á. Trước tình
hình đó, Trung Quốc không muốn chậm chân.
d. Về thời điểm : trong cuộc họp ngày 27 và 28.8.90 tại Nữu Ước, P5
đã thoả thuận văn kiện khung về giải pháp toàn bộ cho vấn đề Campuchia
(gồm các vấn đề : các lực lượng vũ trang Campuchia, tổng tuyển cử dưới
sự bảo trợ của LHQ, nhân quyền và bảo đảm quốc tế đối với thể chế tương
lai của Campuchia). Văn kiện về nhân quyền không đề cập trực tiếp đến
vấn đề diệt chủng, chỉ nói Campuchia sẽ “ không trở lại chính sách và
hành động trong quá khứ ”.
Còn Trung Quốc buộc phải nhân nhượng không còn đòi lập chính phủ
liên hiệp 4 bên ngang nhau, phải chấp nhận vai trò lớn của LHQ. P5 thoả
thuận lịch giải quyết vấn đề Campuchia : trong tuần từ 3.9 đến 9.9 họp
các bên Campuchia ở Jakarta để lập SNC trước phiên họp Đại hội đồng LHQ,
tiếp đó họp mở rộng với các nước trong khu vực (có Trung Quốc), đến
khoảng tháng 10-11.90 họp uỷ ban Phối hợp Hội nghị Paris về Campuchia để
soạn thảo Hiệp định trên cơ sở văn kiện khung do P5 vạch ra, các ngoại
trưởng ký Hiệp định ; 15 nước trong Hội đồng Bảo An thông qua.
Trung Quốc đặt cuộc gặp cấp cao Trung-Việt trong cái khung thời
gian này. Tuy nhiên Bắc Kinh giấu không cho ta biết gì về những thoả
thuận giữa họ và các nước lớn trong Hội đồng bảo an, mặt khác cũng giữ
kín cuộc hẹn gặp ta ở Thành Đô vì không muốn làm cho phương Tây và ASEAN
lo ngại khả năng đoàn kết hợp tác giữa Trung Quốc và Việt Nam.
Ngày 30.8.90, Bộ Chính trị họp bàn về việc gặp lãnh đạo Trung Quốc.
Anh Linh nêu ý kiến là sẽ bàn hợp tác với Trung Quốc để bảo vệ chủ
nghĩa xã hội chống đế quốc, và hợp tác giữa Phnom Penh và Khmer Đỏ để
giải quyết vấn đề Campuchia, mặc dù trước đó Bộ Ngoại Giao đã trình bày
đề án nêu rõ là rất ít khả năng thực hiện phương án này vì phương hướng
chiến lược của Trung Quốc vẫn là tranh thủ phương Tây phục vụ “ 4 hiện
đại ”.
Anh Lê Đức Anh bổ sung ý anh Linh : “ Phải nói về hoà hợp dân tộc
thực sự ở Campuchia. Nếu không có Pol Pot thì vẫn tiếp tục chiến tranh
”. Anh Võ Chí Công không đồng ý, nói : “ Trung Quốc sẽ không nghe ta về
hợp tác bảo vệ chủ nghĩa xã hội. Trung Quốc muốn tranh thủ phương Tây ”.
Anh Thạch cảnh giác : “ Vẫn có 3 khả năng về quan hệ giữa ta và
Trung Quốc, không phải chỉ là khả năng tốt cả. Dự kiến Trung Quốc sẽ nêu
công thức “ SNC 6+2+2+2 ” để nhấn rõ là có 4 bên Campuchia (trong đó
Khmer đỏ là 1 bên), xoá vấn đề diệt chủng...” Sự thực sau này cho thấy
Trung Quốc còn đòi cao hơn thế !
Ngày 2.9.90, ba đồng chí lãnh đạo cao cấp của ta đến Thành Đô đúng
hẹn. Tháp tùng có Hồng Hà - Chánh Văn phòng Trung ương, Hoàng Bích Sơn -
Trưởng ban Đối ngoại, và Đinh Nho Liêm – Thứ trưởng Bộ Ngoại Giao. Đáng
chú ý là trong đoàn không có bộ trưởng ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch.
Sau 2 ngày nói chuyện (3-4.9.90), kết quả được ghi lại trong một
văn bản gọi là“ Biên bản tóm tắt ” gồm 8 điểm. Khi nghiên cứu biên bản 8
điểm đó, chúng tôi nhận thấy có tới 7 điểm nói về vấn đề Campuchia, chỉ
có 1 điểm nói về cải thiện quan hệ giữa hai nước mà thực chất chỉ là
nhắc lại lập trường cũ Trung Quốc gắn việc giải quyết vấn đề Campuchia
với bình thường hoá quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc.
Trong 7 điểm về Campuchia, 2 điểm là những điểm có tính chất chung
về mặt quốc tế mà 2 bên đang còn tranh cãi (giải pháp chính trị toàn
diện cho vấn đề Campuchia ; rút hết quân Việt Nam ở Campuchia có dẫn
chứng), còn 5 điểm thì hoàn toàn là đáp ứng yêu cầu của Trung Quốc.
Không có điểm nào theo yêu cầu của ta cả. Trong bản thoả thuận, vấn đề
nổi cộm nhất là điểm 5 về việc thành lập SNC.
Lãnh đạo ta đã thoả thuận dễ dàng, không do dự (!), công thức “
6+2+2+2+1 ” (phía Phnom Penh 6 người ; phía “ 3 phái ” 7 người ; 2 của
Khmer đỏ, 2 của phái Son San, 2 của phái Sihanouk và bản thân Sihanouk)
mà Từ Đôn Tín vừa đưa ra ở Hà Nội và bị tôi bác. Công thức này bất lợi
cho Phnom Penh, với công thức “6+6” hay “6+2+2+2”, tức là hai bên có số
người ngang nhau mà Sihanouk và Hun Xen đã thoả thuận ở Tokyo.
Về sáng kiến “ giải pháp Đỏ ” cho vấn đề Campuchia mà lãnh đạo ta
đưa ra, tưởng như phía Trung Quốc sẽ nhiệt liệt hoan ngênh, song Lý Bằng
đã bác đi: “Các đồng chí nói cần thực hiện 2 đảng cộng sản hợp tác với
nhau để phát huy hơn nữa. Tôi đồng ý một phần và không đồng ý một phần.
Bốn bên Campuchia, xét về lực lượng quân sự và chính quyền, mạnh nhất là
hai đảng cộng sản, có vai trò nhiều hơn. Nhưng phần tôi không đồng ý là
ở Campuchia không chỉ có hai đảng cộng sản mà còn có các thế lực khác
là lực lượng của Sihanouk và lực lượng của Son San. Lực lượng của họ
không lớn lắm nhưng họ được quốc tế ủng hộ. Bài xích họ thì cô lập SNC,
không thể đoàn kết Campuchia. Cần phải để cho hai bên kia phát huy tác
dụng ở Campuchia ”.
Và Giang Trạch Dân cùng nói thêm : “ Các nước phương Tây rất chú ý
tới quan hệ của chúng ta. Các đồng chí đến đây, cho đến nay các nước
không ai biết, cũng không cho các bên Campuchia biết. Chúng tôi cảnh
giác vấn đề này. Họ cho rằng Việt nam XHCN, Trung Quốc XHCN đều do Đảng
Cộng sản lãnh đạo, họp với nhau bàn cái gì đây ? Vì vậy chúng tôi giữ
kín chuyến đi này. Tình hình quốc tế hiện nay nếu để hai đảng cộng sản
bắt tay nhau là sách lược không lợi cho chúng ta ”.
Thành Đô là thành công hay là thất bại của ta ?
Ngay say khi ở Thành Đô về, ngày 5.9.90 anh Linh và anh Mười, có
thêm anh Thạch và Lê Đức Anh, đã bay sang Phnom Penh thông báo lại với
Bộ Chính trị Campuchia nội dung cuộc gặp gỡ cấp cao Việt-Trung.
Để thêm sức thuyết phục Phnom Penh nhận Thoả thuận Thành Đô, anh
Linh nói với lãnh đạo Campuchia : “Phải thấy giữa Trung Quốc và đế quốc
cũng có mâu thuẫn trong vấn đề Campuchia. Ta phải có sách lược lợi dụng
mâu thuẫn này. Đừng đấu tranh với Trung Quốc đến mức xô đẩy họ bắt tay
chặt chẽ với đế quốc”.
Lập luận này được Lê Đức Anh mở rộng thêm: “Mỹ và phương Tây muốn
cơ hội này để xoá cộng sản. Nó đang xoá ở Đông Âu. Nó tuyên bố là xoá
cộng sản trên toàn thế giới. Rõ ràng nó là kẻ thù trực tiếp và nguy
hiểm. Ta phải tìm đồng minh. Đồng minh này là Trung Quốc.”
Nhưng câu trả lời của Heng Somrin, thay mặt cho lãnh đạo Campuchia,
vẫn là : “ Phải giữ nguyên tắc không can thiệp vào công việc nội bộ của
chúng ta. Những vấn đề nội bộ liên quan đến chủ quyền CPC phải do các
bên CPC giải quyết ”.
Về “ giải pháp Đỏ ”, Phnom Penh nhận định : “ Trung Quốc không muốn
hai phái cộng sản ở Campuchia hợp tác với nhau gây phức tạp cho quan hệ
của họ với Sihanouk và với phương Tây. Vì vậy chúng tôi thấy rằng khó
có thể thực hiện “ giải pháp Đỏ ” vì “ giải pháp Đỏ ” trái với lợi ích
của Trung Quốc ”.
Mặc dù ban lãnh đạo Campuchia đã xác định rõ thái độ như vậy, song
Lê Đức Anh vẫn cứ cố thuyết phục Bạn : “ Ta nói “giải pháp Đỏ” nhưng đó
là “ giải pháp Hồng ”, vừa xanh vừa đỏ. Trước mắt không làm được nhưng
phải kiên trì. Ta làm bằng nhiều con đường, làm bằng thực tế. Các đồng
chí cần tìm nhiều con đường tiếp xúc với Khmer Đỏ. Vấn đề tranh thủ
Khmer Đỏ là vấn đề sách lược mang tính chiến lược… Nên kiên trì tìm cách
liên minh với Trung Quốc, kéo Khmer Đỏ trở về… Ta đừng nói với Trung
Quốc là làm “ giải pháp Đỏ ”, nhưng ta thực hiện “ giải pháp Đỏ ” ; có
đỏ có xanh…nhưng thực tế là hợp tác hai lực lượng cộng sản ”.
Nguyễn văn Linh bồi thêm : “ Xin các đồng chí chú ý lợi dụng mâu
thuẫn, đừng bỏ lỡ thời cơ. Trung Quốc muốn đi với Mỹ, nhưng Mỹ ép Trung
Quốc nên Trung Quốc cũng muốn có quan hệ tốt với Lào, Việt Nam và
Campuchia. Nếu ta có sách lược tốt thì ta có giải pháp Đỏ."
Theo báo cáo của đại sứ Ngô Điền, thái độ của bạn Campuchia đối với
ta từ sau Thành Đô có đổi khác. Về công khai, bạn cố tránh tỏ ra bị lệ
thuộc vào Việt Nam. Trên cơ sở tính toán về lợi ích của mình, bạn tự
quyết định lấy đối sách, không trao đổi trước với ta, hoặc quyết định
trái với sự gợi ý của ta trên nhiều việc.Nhìn lại, trong cuộc gặp Thành
Đô, ta đã mắc lỡm với Trung Quốc ít nhất trên 3 điểm :
* Trung Quốc nói cuộc gặp Thành Đô sẽ đàm phán cả vấn đề Campuchia
và vấn đề bình thường hoá quan hệ, nhưng thực tế chỉ bàn vấn đề
Campuchia, còn vấn đề bình thường hoá quan hệ hai nước Trung Quốc vẫn
nhắc lại lập trường cũ là có giải quyết vấn đề Campuchia mới nói đến
chuyện bình thường hoá quan hệ hai nước ;
* Trung Quốc nói mập mờ là Đặng Tiểu Bình có thể gặp cố vấn Phạm
Văn Đồng, nhưng đó chỉ là cái “ mồi ” để kéo anh Đồng tham gia gặp gỡ
cấp cao.
* Trung Quốc nói giữ bí mật việc gặp cấp cao hai nước, nhưng ngay
sau cuộc gặp hầu như tất cả các nước đã được phía Trung Quốc trực tiếp
hay gián tiếp thông báo nội dung chi tiết bản thoả thuận Thành Đô theo
hướng bất lợi cho ta.
Ngày 7.9.90 Bộ chính trị đã họp thảo luận về kết quả cuộc gặp cấp
cao Việt-Trung và cuộc gặp cấp cao Việt- Campuchia sau đó, và quyết định
ngay hôm sau Đỗ Mười gặp đại sứ Trung Quốc thông báo lại lập trường của
Campuchia ; đồng thời thông báo với Liên Xô, Lào như đã thông báo với
Campuchia.
Nếu có ai hỏi về công thức “ 6+2+2+2+1 ”, nói không biết. Nhưng Báo
Bangkok Post ngày 19.9.90 trong bài của Chuchart Kangwaan đã công khai
hoá bản Thoả thuận Thành Đô, viết rõ Việt Nam đã đồng ý với Trung Quốc
về thành phần SNC của Campuchia sẽ gồm 6 người của Nhà nước Campuchia, 2
của Khmer đỏ, 2 của phái Son San, 2 của phái Sihanouk, thành viên thứ
13 là Hoàng thân Sihanouk giữ chức Chủ tịch Hội đồng.
Tạp chí Kinh tế Viễn Đông (FEER) số 4/10 (10.10.90) đăng bài Củ
cà-rốt và cái gậy viết về cuộc gặp gỡ cấp cao Trung-Việt ở Thành Đô giữa
Tổng Bí Thư Đảng và Thủ tướng hai nước, cho biết hai bên đã thoả thuân
công thức “ 6+6+1 ” về việc lập SNC.
Phía Việt Nam có nhượng bộ nhiều hơn. Việc Ngoại trưởng hai nước
không dự họp cấp cao là đáng chú ý. Bên trong, Trung Quốc nói họ coi ông
Thạch là người có quan điểm cứng rắn về vấn đề Campuchia cũng như đối
với Trung Quốc.
Ngày 12.10.90, nhà báo Nayan Chanda nói với anh Thạch : “ Trung
Quốc đang tuyên truyền rộng rãi là lãnh đạo Việt Nam đánh lừa mọi người,
họ ký kết với lãnh đạo Trung Quốc về thành phần SNC nhưng đã không thực
hiện thoả thuận cấp cao Việt-Trung. Việt Nam lại còn xúi dục chính
quyền Phnom Penh chống việc bầu Sihanouk làm chủ tịch SNC và đưa ra hết
điều kiện này đến điều kiện khác.”
Ngày 5.10.90, anh Nguyễn Cơ Thạch gặp Ngoại trưởng Mỹ Baker.
Baker cho biết là sau khi cuộc họp các bên Campuchia ở Bangkok vừa
qua thất bại, Trung Quốc rất bất bình với lãnh đạo Việt Nam. Trung Quốc
cho rằng lãnh đạo cấp cao của Việt Nam đã hoàn toàn đồng ý với đề nghị
của Trung Quốc về con số 13 thành viên của SNC nhưng lại nói với Phnom
Penh là công thức đó là ý kiến riêng của Trung Quốc, đã không làm gì để
thúc đẩy Phnom Penh thực hiện thoả thuận giữa cấp cao hai nước. Không
thể tin được ngay cả lãnh đạo cấp cao nhất của Việt Nam cũng như Bộ
Ngoại giao Việt Nam.
Baker còn nói rằng Trung Quốc đã bác bỏ đề nghị của lãnh đạo cấp
cao nhất của Việt Nam là Việt Nam và Trung Quốc đoàn kết bảo vệ CNXH
chống âm mưu của đế quốc Mỹ xoá bỏ CNXH cũng như đề nghị của Việt Nam về
giải pháp dựa trên liên minh giữa Phnom Penh và Pol Pot.
Còn Lý Bằng trong khi trả lời phỏng vấn của Paisai Sricharatchang,
phóng viên tờ Bangkok Post tại Bắc Kinh, ngày 24.10.90, đã xác nhận có
một cuộc gặp bí mật giữa lãnh đạo Trung Quốc và Việt Nam hồi đầu tháng 9
và cho biết kết quả cuộc gặp đã được phản ảnh qua cuộc họp giữa các bên
Campuchia ngày 10.9.90 tại Jakarta. Trong khi nói không biết chắc phía
Việt Nam đã cố gắng thuyết phục Phnom Penh đến đâu, Lý nhận định là Hà
Nội chắc chưa làm đủ mức. Điều đó có thể thấy được qua việc Phnom Penh
đã có “ một thái độ thiếu hợp tác ”.
Sở dĩ ta dễ dàng bị mắc lừa ở Thành Đô là vì chính ta đã tự lừa ta.
Ta đã tự tạo ra ảo tưởng là Trung Quốc sẽ giương cao ngọn cờ CNXH,
thay thế cho Liên Xô làm chỗ dựa vững chắc cho cách mạng Việt Nam và chủ
nghĩa xã hội thế giới, chống lại hiểm hoạ “ diễn biễn hoà bình ” của
chủ nghĩa đế quốc do Mỹ đứng đầu. Tư tưởng đó đã dẫn đến sai lầm Thành
Đô cũng như sai lầm “ giải pháp Đỏ ”.
Sau Thành Đô, trong Bộ Chính trị đã có nhiều ý kiến bàn cãi về
chuyến đi này. Song mãi đến trước Đại hội VII, khi Bộ Chính trị họp
(15-17.5.91) thảo luận bản dự thảo Báo cáo về tình hình thế giới và việc
thực hiện đường lối đối ngoại của Đại hội VI và phương hướng tới, cuộc
gặp cấp cao Việt Nam - Trung Quốc ở Thành Đô mới lại được đề cập tới khi
bản dự thảo báo cáo của Bộ Ngoại Giao có câu “ có một số việc làm không
đúng với các Nghị quyết của Bộ Chính trị về vấn đề Campuchia ”.
Cuộc họp này đầy đủ Tổng Bí Thư Nguyễn văn Linh, các cố vấn Phạm
văn Đồng, Võ Chí Công, các uỷ viên BCT Đỗ Mười, Võ Văn Kiệt, Nguyễn Cơ
Thạch, Lê Đức Anh, Mai Chí Thọ, Nguyễn Đức Tâm, Đào Duy Tùng, Đồng Sĩ
Nguyên, Đoàn Khuê, Nguyễn Thanh Bình.
Anh Tô nói :
“ Có thời giờ và có cơ hội đem ra kiểm điểm những việc vừa qua để
nhận định sâu sắc thì tốt thôi. Sau chuyến đi Thành Đô, tôi vẫn ân hận
về thái độ của mình. Nói là tự kiểm điểm thì tự kiểm điểm. Tôi ân hận là
ở hai chỗ.
Lúc ở Thành Đô, khi bàn đến vấn đề Campuchia, người nói là anh
Linh. Anh Linh nói đến phương án hoà giải dân tộc Campuchia. Sau đó Lý
Bằng trình bày phương án “ 6+2+2+2+1 ” mà Từ Đôn Tín khi đàm phán với
anh Cơ ở Hà Nội đã ép ta nhận song ta bác. Anh Linh đã đồng ý (nói không
có vấn đề). Lúc đó có lẽ do thấy thái độ của tôi, Giang mời tôi nói.
Tôi nói : tôi không nghĩ phương án 13 này là hay, ý tôi nói là không
công bằng... Tôi ân hận là lẽ ra sau đó đoàn ta nên hội ý lại sau bữa
tiệc buổi tối.
Nhưng tôi không nghĩ ra, chỉ phân vân. Sáng sớm hôm sau, mấy anh
bên Ban Đối Ngoại và anh Hồng Hà nói nhỏ với tôi là cốt sao tranh thủ
được nguyên tắc “ consensus ” (nhất trí), còn con số không quan trọng.
Tôi nghe hơi yên tâm nhưng vẫn nghĩ có hội ý vẫn hơn. Sau đó, Trung Quốc
đưa ký bản thoả thuận có nói đến con số 13… Tôi phân vân muốn được biết
nội dung trước khi ta hạ bút ký. Nếu như đoàn ta trao đổi với nhau sau
phiên họp đầu, sau khi Lý Bằng đưa ra công thức 6+2+2+2+1 thì ta có thể
có cách bàn thêm với họ.
Hai là trước khi ký văn bản do chuyên viên hai bên thoả thuận, các
đồng chí lãnh đạo cần xem lại và bàn bạc xem có thể thêm bớt gì trước
khi ký. Nghĩ lại, khi họ mời Tổng Bí Thư, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng ta
sang gặp Tổng Bí Thư, Chủ tịch Quốc vụ viện, lại mời thêm tôi. Tôi khá
bất ngờ, không chuẩn bị kỹ. Anh Mười cho là họ mời rất trang trọng, cơ
hội lớn, nên đi. Nhưng đi để rồi ký một văn bản mà ta không lường trước
hậu quả về phản ứng của Bạn Campuchia, rất gay gắt. Tôi hiểu là Bạn khá
bất bình, thậm chí là uất nhau. Cho ta là làm sau lưng, có hại cho người
ta.”
Anh Linh : “ Anh Tô nhớ lại xem. Không phải tôi đồng ý, tôi chỉ nói
ta nghiên cứu xem xét và cuối cùng đặt vấn đề thông báo lại Campuchia…
Bây giờ tôi vẫn nghĩ thế là đúng. Tôi không thấy ân hận về việc mình
chấp nhận phương án 13… Vấn đề Campuchia dính đến Trung Quốc và Mỹ. Phải
tính đến chiến lược và sách lược. Phải tiếp tục làm việc với Campuchia
về chiến lược, phải có nhiều biện pháp làm cho bạn thấy âm mưu của đế
quốc Mỹ chống phá chủ nghĩa xã hội ở châu Á, cả ở Cuba. Nó đã phá Trung
Quốc qua vụ Thiên An Môn rồi, nay chuyển sang phá ta… Trung Quốc muốn
thông qua Khmer Đỏ nắm Campuchia. Song dù bành trướng thế nào thì Trung
Quốc vẫn là một nước xã hội chủ nghĩa.”
Anh Thạch : “ Về chuyện Thành Đô, Trung Quốc đã đưa cả băng ghi âm
cuộc nói chuyện với lãnh đạo ta ở Thành Đô cho Phnom Penh. Hun Xen nói
là trong biên bản viết là “ hai bên đồng ý thông báo cho Campuchia
phương án 6+2+2+2+1” nhưng băng ghi âm lại ghi rõ anh Linh nói là “
không có vấn đề gì ”.
Tôi xin trình bày để các anh hiểu nguyên do con số 13 là từ đâu.
Tại Tokyo tháng 6.90, Sihanouk và Hun Xen đã thoả thuận thành phần SNC
gồm hai bên ngang nhau = 6+6. Từ Đôn Tín sang Hà Nội, ép ta nhận công
thức 6+2+2+2+1 không được. Đến cuộc gặp Thành Đô, Trung Quốc lại đưa ra.
Khi ta sang Phnom Penh để thuyết phục bạn nhận con số 13 với nguyên tắc
làm việc consensus trong SNC, anh Hun Xen nói riêng với tôi : chúng tôi
thắng mà phải nhận số người ít hơn bên kia (bên ta 6, bên kia 7) thì
mang tiếng Campuchia bị Việt nam và Trung Quốc ép. Như vậy, dù là
consensus cũng không thể thuyết phục nhân dân Campuchia được. Chỉ có thể
nhận 12 hoặc 14 thành viên trong Hội đồng Dân tộc Tối cao. Phải nói là
Phnom Penh thắc mắc nhiều với ta. Liên Xô, Anh, Pháp, Nhật, Mỹ đều cho
ta biết là Trung Quốc đã thông báo cho họ đầy đủ về Thoả thuận Thành Đô
và nói với họ là lãnh đạo Việt Nam không đáng tin cậy. Trung Quốc đã sử
dụng Thành Đô để phá quan hệ của ta với các nước và chia rẽ nội bộ ta…”
Hôm sau, Bộ Chính trị họp tiếp,
anh Mười nói : “ Ta tán thành Sihanouk làm chủ tịch Hội đồng Dân
tộc Tối cao, Hun Xen làm phó chủ tịch, lấy nhất trí trong Hội đồng Dân
tộc Tối cao làm nguyên tắc. Đây không phải là một nhân nhượng… Nếu có
anh Thạch đi Thanh Đô thì tốt hơn…”
Anh Tô : “ Vấn đề chủ yếu không phải là thái độ của ta ở Thành Đô
như anh Mười nói, mà là kết quả và tác động đến bạn Campuchia đánh giá
ta như thế nào ? Ở Thành Đô, điều ta làm có thể chứng minh được nhưng
Cam-puchia cho là ta giải quyết trên lưng họ. Vì vậy mà tôi ân hận. Tôi
ân hận là về sau này sẽ để lại hậu quả.”
Anh Mười : “ Với tinh thần một người cộng sản, tôi cho là ta không
sai. Ban Campuchia nghĩ gì về ta là quyền của họ. Với tinh thần một
người cộng sản, ta không bao giờ vi phạm chủ quyền của bạn.”
Anh Thạch : “ Họp Bộ Chính trị để kiểm điểm, tôi xin được nói
thẳng. Có phải khi đi Thành Đô về, anh Đỗ Mười có nói với tôi là hai ông
anh nhận hơi sớm. Anh Linh nhận công thức 13 và anh Tô nhận consensus
(nguyên tắc nhất trí) ” .
Anh Võ Văn Kiệt : “ Trong thâm tâm tôi, tôi không đồng ý có anh Tô
trong đoàn đi Thành Đô. Nếu có gặp anh Đặng thì anh Tô đi là đúng. Tôi
nói thẳng là tôi xót xa khi biết anh Tô đi cùng anh Linh và anh Mười chỉ
để gặp Giang và Lý, không có Đặng. Mình bị nó lừa nhiều cái quá. Tôi
nghĩ Trung Quốc chuyên là cạm bẫy.”
Vốn là người điềm đạm, song anh Tô có lúc đã phải phát biểu : “
Mình hớ, mình dại rồi mà còn nói sự nghiệp cách mạng là trên hết, còn
được hay không thì không sao. Cùng lắm là nói cái đó, nhưng tôi không
nghĩ như vậy là thượng sách. Tôi không nghĩ người lãnh đạo nên làm như
vậy.”
Thoả thuận Việt Nam - Trung Quốc ở Thành Đô đúng như anh Tô lo ngại
đã để lại một ấn tượng không dễ quên đối với Phnom Penh. Trong phiên
họp Quốc hội Campuchia ngày 28.2.91, Hun Xen phát biểu :
“ Như các đại biểu đã biết, vấn đề SNC này rất phức tạp. Chúng ta
phải đấu tranh khắc phục và làm thất bại âm mưu của kẻ thù nhưng bọn ủng
hộ chúng không đâu. Mặc dù Hội đồng đã được thành lập trên cơ sở 2 bên
bình đẳng nhưng người ta vẫn muốn biến thành 4 bên theo công thức
6+2+2+2+1, và vấn đề chủ tịch làm cho Hội đồng không hoạt động được ”.
Tôi còn nhớ khi tiếp tôi ở Phnom Penh, ngày 28.9.90, Hun Xen đã có
những ý khá mạnh về thoả thuận Thành Đô : “ Khi gặp Sok An ở Bangkok hôm
17.9, Trung Quốc doạ và đòi SOC phải công nhận công thức mà Việt Nam và
Trung Quốc đã thoả thuận. Nhưng Phnom Penh độc lập. Sok An đã nói rất
đúng khi trả lời Trung Quốc là ý này là của Việt Nam không phải của
Phnom Penh.”
Cuộc hội đàm Thành Đô tháng 9.90 hoàn toàn không phải là một thành
tựu đối ngoại của ta, hiện tại đó là một sai lầm hết sức đáng tiếc về
đối ngoại. Vì quá nôn nóng cải thiện quan hệ với Trung Quốc, đoàn ta đã
hành động một cách vô nguyên tắc, tưởng rằng thoả thuận như thế sẽ được
lòng Bắc Kinh nhưng trái lại thoả thuận Thành Đô đã làm chậm việc giải
quyết vấn đề Campuchia và do đó làm việc bình thường hoá quan hệ với
Trung Quốc, uy tín quốc tế của ta bị hoen ố.
Việc ta đề nghị hợp tác với Trung Quốc bảo vệ chủ nghĩa xã hội
chống đế quốc Mỹ, thực hiện “ giải pháp Đỏ ” ở Campuchia là không phù
hợp với Nghị quyết 13 của Bộ Chính trị mà còn gây khó khăn với ta trong
việc đa dạng hoá quan hệ với các đối tượng khác như Mỹ, phương Tây,
ASEAN, và tác động không thuận lợi đến quan hệ giữa ta và đồng minh,
nhất là quan hệ với Liên Xô và Campuchia.
Trung Quốc một mặt bác bỏ những đề nghị đó của ta, nhưng mặt khác
lại dùng ngay những đề nghị đó chơi xấu ta với các nước khác nhằm tiếp
tục cô lập ta, gây sức ép với ta và Campuchia.
Cùng với việc ta thúc ép Phnom Penh đi vào “ giải pháp Đỏ ”, việc
ta thoả thuận với Trung Quốc công thức SNC tại Thành Đô là không phù hợp
với nguyên tắc nhất quán của Đảng ta là không can thiệp và không quyết
định các vấn đề nội bộ của Campuchia, làm tăng mối nghi ngờ vốn có của
Campuchia đối với ta, đi ngược lại chủ trương tăng cường và củng cố mối
quan hệ với ta với Campuchia và Lào.”
Trần Quang Cơ
Hồi ký “Hồi ức và Suy nghĩ” (Trích)