Thứ Sáu, 31 tháng 7, 2015

TÀI IỆU THAM KHẢO VỀ PHỦ THÀNH QUI NHƠN

Đôi điều về phủ thành Quy Nhơn

Tháng Bảy 18, 2015 bởi xunauvn
 
              Phan Trường Nghị
 
dien_thoquang_trung_du-lich-binh-dinh-tour-binh-dinh-du-llich-ben-nghe
Năm 1471, hạ xong thành Đồ Bàn, bắt Chiêm vương Trà Toàn đem theo quân thứ ban sư về kinh, chỉ vài tháng sau vua Lê Thánh Tông lập ra đạo thừa tuyên thứ 13 là Thừa Tuyên Quảng Nam. Rồi vị tướng nhiều công trạng trong cuộc chiến tiến binh vào kinh đô Đồ Bàn năm ấy là Trung quân Đô thống Phạm Nhữ Tăng, ông được giao quyền Đô Ty Quảng Nam kiêm Trấn Phủ Hoài Nhơn. Phủ Hoài Nhơn là châu Vijaya của người Chiêm trước kia, là một trong 3 phủ mới được thành lập : Thăng Hoa, Tư Nghĩa và Hoài Nhơn, chúng đã được ghi tên vào bản đồ Đại Việt sau cuộc nam chinh của vua Lê. Từ một số thông tin của tộc phả họ Phạm dòng dõi Thượng tướng quân Phạm Ngũ Lão nầy cho thấy Đô thống phủ, lỵ sở của Thừa Tuyên Quảng Nam lúc ấy đặt tại thành Đồ Bàn. Quan Đô thống đã thọ bệnh qua đời và chôn cất tại đây vào tháng 2 năm 1478, sau được cải táng về làng Hương Quế nay thuộc Quế Phú huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam. Như vậy vị quan đầu tiên trấn nhậm Quảng Nam kiêm lý phủ Hoài Nhơn, ông ở chức chỉ được 6 năm tại Hoài Nhơn, vùng cực nam của Đại Việt thời bấy giờ – là vùng đất cả tỉnh Bình Định bây giờ.
Quảng Nam thời ấy được thống hạt bỡi 3 Ty là Đô Ty, Thừa Ty, và Hiến ty. Nhiều người cho rằng lỵ sở của Tam ty Quảng Nam có ở Châu Sa (Quảng Ngãi), rồi Chiên Đàn (Tam Kỳ), nhưng chưa cho biết rõ lỵ sở dời ra đó vào lúc nào, vì sao phải chuyển dời. Dù sao thì điều phải rõ hơn hết là lỵ sở của một đơn vị hành chánh to lớn, của một đạo thừa tuyên mới thành lập phải được đặt nơi có thành trì, nơi có dân cư đông đúc, trù phú. Thành trì ngày xưa chính là nơi tứ dân an toàn trú ngụ, yên ổn mưu sinh. Thành trì cũng là nơi mà vua quan điều động quân lương, kén tuyển quân binh một cách nhanh chóng và dễ dàng để phòng ngự hoặc chuẩn bị cho một cuộc viễn chinh. Dinh trấn của Quảng Nam đến đầu thế kỷ 17 đặt ở Thanh Chiêm – vùng đất màu mỡ Điện Bàn đã nói lên được điều nầy khi các nước Tây dương đến đây đã xem Quảng Nam trù phú như là một đất nước riêng ở Đàng Trong.
Thành Đồ Bàn, kinh đô cũ của vương quốc Chiêm Thành, dù sau đó có không phải là lỵ sở của Tam ty đi nữa thì cũng là phủ thành của Phủ Hoài Nhơn trong một thời gian dài vào thời nhà Lê. Đến khi Chúa Nguyễn Hoàng vừa bước được vào nam, năm 1602 đã đổi Quảng Nam là Dinh (Doanh) chứ không gọi là Đạo Thừa Tuyên nữa. Theo Đại Nam Nhất Thống Chí thì Chúa đã đổi gọi Phủ Hoài Nhơn của Quảng Nam thành Phủ Quy Nhơn cũng vào năm nầy [1]. Biểu hiện của một sự thay đổi quyền lực, lẽ thường bao giờ cũng có sự thay đổi trước tiên về điển chế thông qua thay đổi địa danh trị nhậm. Nhưng điều quan trọng là với địa danh mới, bá tánh có an nhiên thoải mái sử dụng ngay hay không mà thôi. Ngay như trong thời buổi hiện tại, tên gọi Sài Gòn vẫn cứ được trăm họ hồn nhiên sử dụng qua cửa miệng chẳng chút gượng gạo song song với tên gọi trên giấy tờ hành chánh. Chỉ 50 năm sau ngày Chúa Nguyễn Hoàng thay đổi tên gọi đất Bình Định xưa, vào năm 1651 Chúa Nguyễn Phúc Tần đã cho đổi tên Phủ Quy Nhơn thành Quy Ninh. Rồi đến năm 1742 Chúa Nguyễn Phúc Khoát lại cho lấy lại tên cũ là Phủ Quy Nhơn. Trích dẫn lại từ Địa Chí Bình Định thì theo Thực Lục Tiền Biên – Viện Sử Học xuất bản năm 1962 cho biết 2 năm sau, năm 1744 Chúa Phúc Khoát cho dời phủ lỵ ra phía Bắc thành Đồ Bàn, nơi mà ngày nay thuộc Phường Nhơn Thành của Thị xã An Nhơn.[2]
Thay đổi tên gọi một địa danh cho vùng đất khi phải sáp nhập hay chia tách thì khác, nhưng ở đây với địa giới phủ Hoài Nhơn hay Quy Nhơn hay Quy Ninh thời Chúa Nguyễn, xem thấy chẳng có chút gì gọi là thay đổi. Năm 1611 thời Chúa Tiên Nguyễn Hoàng, cương vực phía nam đã mở rộng tới núi Thạch Bi, cũng cho thuộc vào Dinh Quảng Nam, nhưng là lập thêm một phủ mới ở phía nam Cù Mông gọi là Phủ Phú Yên. Đến năm 1629 Chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên cho lập dinh trấn mới ở đây gọi là Dinh Trấn Biên để chuẩn bị tiến xa xuống phía nam. Đã không có chút thay đổi gì về địa giới, vậy điều gì đã khiến cho các Chúa phải thay đổi tên gọi vùng đất Bình Định thời đó. Các sử thần ngày xưa đã không ghi lại chuyện đó vì sao, các sử gia ngày nay chắc cũng chẳng ai hơi đâu tìm hiểu làm cho giới sưu khảo nghiệp dư có người phải tốn công tốn sức đi tìm thông qua việc tìm hiểu ngữ nghĩa của địa danh. Nói thì nói vậy chớ chẳng dễ dàng gì, ngày nay việc tìm hiểu địa danh qua ngữ nghĩa chẳng khác nào rơi vào mớ bòng bong. Lớp trẻ thời bây giờ có mấy ai đọc và hiểu rành rẽ tự dạng chữ Hán Nôm. Trong mấy ai đó có bao nhiêu người tiếp cận được kho tư liệu ngày xưa để tìm những minh chứng từ chỗ địa danh. Rồi địa danh đổi thay xoành xoạch qua mấy lớp bể dâu mấy tầng triều đại, mấy ai đó dễ gì đủ điều kiện để đi tìm cho tới nơi tới chốn. Chẳng hạn với địa danh Bả Canh, vị trí của Bả Canh nằm trong vòng thành Đồ Bàn và cũng là kế cận Nhơn Thành bây giờ (Nhơn Thành là nơi mà Thực Lục Tiền Biên trên kia đã cho là Phủ Thành Quy Nhơn dời ra đây năm 1744), Bả Canh được hiểu theo nghĩa là cầm cày, hay là cày ruộng quan, hay bằng một ngữ nghĩa nào khác nữa (!?).
Đọc lại Địa Bạ Bình Định lập năm Gia Long 1815 thì Trường Cửu Bả Canh Chánh Hộ ấp của Thuộc Thời Đôn, Huyện Tuy Viễn, Trấn Bình Định lúc ấy có 24 mẫu quan điền, công điền 48 mẫu, tư điền có 90 mẫu. (Quan điền là loại ruộng công do quan chức quản lý, để cho lính hoặc dân, cũng có thể là dân ở nơi khác đến cày cấy nộp với mức thuế cao thu làm quốc khố. Công điền cũng là loại ruộng công nhưng do xã thôn quản lý, chia cho dân của xã thôn canh tác theo một định kỳ nào đó). Đến năm 1832, Minh Mệnh đổi gọi Trấn Bình Định là Tỉnh, vua cho tiến hành chính sách quân điền ở đây. Sau khi bình quân, chia lại ruộng đất, Ấp Trường Cửu Bả Canh Chánh Hộ đã rút gọn tên họ thành Thôn Bả Canh của Tổng Thời Đôn, huyện Tuy Viễn, Tỉnh Bình Định (hiện bây giờ là Bả Canh của Phường Đập Đá, Thị xã An Nhơn). Lúc nầy mới té ra quan điền ở đây tăng gần gấp đôi (42 mẫu), gộp với công điền lên tới 119 mẫu trong khi tư điền chỉ còn 45 mẫu. Bả Canh thời đó đã là chánh hộ ấp chớ không phải là khách hộ ấp, có nghĩa là tên của nó đã có trong sổ bộ thu thuế tự đời nảo đời nao. Bả Canh nằm trong vòng thành Đồ Bàn, ruộng đất ở đây đa phần là quan điền, chính quyền cho thu tô cao để chiết lập quân lương cho thành trì. Chữ Bả theo tự dạng chữ Nôm có khác một chút theo tự dạng chữ Hán. Xem vậy không thể chỉ tra tự điển Hán Việt thấy Bả nghĩa là cầm nắm, Canh nghĩa là cày bừa mà cứ gọi đại ra Bả Canh là cầm cày. Cày bừa và Cái cày bản thân ngữ nghĩa đã khác hẳn nhau, ấy vậy mà Hán ngữ còn thêm chuyện đồng âm dị tự đem đến bao nhiêu điều tréo cẳng ngỗng. Ngày nay có nhiều người đã diễn dịch tên gọi Quy Nhơn có nghĩa là con người quy tụ về đây, trong khi đó tự dạng chữ Nhơn trong Quy Nhơn có nghĩa là lòng nhơn là nhơn nghĩa chớ không phải là người. Ngữ nghĩa lại còn lắm điều kỵ húy phải cải lại kiểu viết, cải lại kiểu đọc từng làm đau đầu các sĩ tử ngày xưa khi đi thi nữa là. Xưa vợ của Thái tử Đảm (vua Minh Mệnh sau nầy) tên là Hồ Thị Hoa, vua cha Gia Long ban sắc chỉ kiêng kỵ tên Hoa. Việc thương yêu con dâu quá đáng của vua đã dẫn đến chuyện Phường Hoa Phúc của xã Thời Lượng, Tổng Hạ, huyện Phù Ly (chính là vùng đất Phường Nhơn Thành, Gò Găng của An Nhơn bây giờ, lúc đó thuộc Tổng Hạ huyện Phù Ly tức là Phù Cát ngày nay); hoặc là Thôn Phong An của Phù Cát bây giờ nguyên trước xưa là ấp Hoa An cũng của xã Thời Lượng, tất cả thần dân đều phải đọc trại ra thành Ba Phúc phường, Ba An ấp. Ngay như Phúc cũng là đọc trại từ âm Phước của Hán ngữ, vì kiêng húy chữ Phước là bối tự – chữ lót của họ vua. Đi điền dã để sưu khảo, khi hỏi mấy cụ ngày xưa mà không lưu ý âm đọc thì chỉ có nước sa vào mớ rối bòng bong ngữ nghĩa.
Thông qua việc tìm hiểu địa danh để minh chứng vì sao Chúa Tiên đổi gọi tên Phủ Hoài Nhơn được đặt ra từ thời Lê Thánh Tông thành Phủ Quy Nhơn, vì sao Chúa Nguyễn Phúc Tần đổi gọi tên Phủ Quy Nhơn của chúa Tiên thành Phủ Quy Ninh quả là không dễ. Còn thông qua các bộ sử của Đại Việt cũng chưa thấy đâu dấu tích tên của Phủ thành gọi cho Thành Đồ Bàn là lỵ sở của Phủ thời ấy. Cuốn hồi ký của giáo sĩ Cristophoro Borri (1583 – 1632) ghi chép lại thời gian ông đến với Đàng Trong, nay đã được in thành sách ở Việt Nam dưới tên Xứ Đàng Trong Năm 1621, cuốn sách có nhiều tư liệu quý giá cho biết bối cảnh Quảng Nam và Quy Nhơn thời bấy giờ, nhưng cũng chẳng cho thấy rõ Dinh quan trấn thủ thời ấy như thế nào (Quan trấn thủ ở đây chính là Khám Lý Trần Đức Hòa, người đã tiến cử Đào Duy Từ cho Chúa Sãi).
Khi Chúa Nguyễn Phúc Khoát lấy lại tên gọi Phủ Quy Nhơn của Chúa Tiên Nguyễn Hoàng, tên Quy Nhơn mới được biết nhiều, nhắc nhiều, hẳn nhiên qua đó cũng có tên của Phủ Thành Quy Nhơn.
Với Chuyện Chàng Lía – Văn Doan Diễn Ca, lướt qua chỗ sau khi xưng hiệu Sơn vương, Lía đem lâu la rời sơn trại đi đánh quan binh  :
… Bình Hòa kéo xuống, đông đà quá đông.
Quan thành nghe báo một khi,
Tức thì ra lịnh điểm binh trừ loàn.
Hai bên giáp chiến một khi,
Trống giong cờ phất, hơn hai ngàn người…
Lía đánh quan binh, quan giữ thành đưa lính ra kháng cự mà không biết ở đây là thành nào, quan quân thua trận phải Chạy về Bình Định đặng mà xin binh….
Còn với Tây Sơn Lương Tướng Ngoại Truyện của Cụ nghè người Nhơn Hậu – An Nhơn, Bình Định là Nguyễn Trọng Trì (1854 – 1922), trong chuyện Đô Đốc Nguyễn Văn Tuyết nói rõ hơn lên là có hành cung ở Quy Nhơn khi Chúa Nguyễn Phúc Khoát xa giá đến đây :
Xa giá của Chúa Nguyễn đến Quy Nhơn. Một mình Nguyễn [tức là Nguyễn Văn Tuyết] ban đêm vào hành cung, thấy canh giữ rất nghiêm ngặt, không thể đến gần (chúa) được, bèn rẽ vào vườn sau. Nghe ngựa hí, tiếng rất hùng tráng khác ngựa thường, biết đây là giống ngựa hãn huyết (mồ hôi có màu máu), lòng hồi hộp, bèn lấy trộm ra. Một đêm chạy năm sáu trăm dặm đến An Khê trời chưa sáng tỏ. Ngựa tên Xích Kỳ, là cống vật của Cao Man. Chúa rất yêu thích, nên xa giá xuống phương nam cũng đem ngựa theo. Đến Quy Nhơn một đêm bỗng mất ngựa, bèn xuống chỉ tìm khắp nơi.
Lúc bấy giờ Nguyễn Khắc Tuyên làm Tuần Phủ Quy Nhơn, nghe tin sợ quá, cho người cỡi ngựa rảo tìm bắt kẻ trộm. Nhưng rốt cuộc không tìm được. Tuyên suýt phải tội. Trương Phúc Loan hết sức cứu mới được miễn…
Tây Sơn Lương Tướng Ngoại Truyện không cho thấy rõ hành cung nơi Chúa ở khi Chúa đến phủ Quy Nhơn là nơi nào, ở ngay trong Phủ Thành hay hành cung dựng tại một địa điểm ở đâu đó ngoài thành. Dù sao Tây Sơn Lương Tướng Ngoại Truyện cũng cho biết Tuần phủ Quy Nhơn lúc ấy là Nguyễn Khắc Tuyên, cũng giống như Đại Nam Chính Biên Liệt Truyện Quyển 30 của Quốc sử quán nhà Nguyễn xác nhận :
Nhạc là người nhiều mưu cơ trí trá, một hôm tự ngồi vào trong cũi, sai bè lũ xe đến nói là bắt được Nhạc giải nộp, Nguyễn Khắc Tuyên không ngờ là dối, sai mở cửa thành để nhận, đêm hôm ấy bọn lũ của Nhạc lẻn vào đốt doanh giết tướng, chiếm cứ lấy thành…
Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục Quyển 44 của Quốc Sử Quán nhà Nguyễn cũng ghi nhận việc Nguyễn Nhạc khi dấy nghĩa, năm 1773 đã đánh chiếm Thành Quy Nhơn bằng chiến tích ly kỳ như trong Liệt Truyện :
Văn Nhạc là người nhiều cơ mưu trí tuệ. Một hôm, tự ngồi vào trong cũi, rồi sai đồ đảng luân chuyển báo đi rằng : Bắt được Văn Nhạc đem giải nộp trấn doanh. Viên tướng giữ trấn không ngờ là sự trí trá, bèn mở cửa doanh thu nhận. Đêm hôm ấy, đồ đảng của Nhạc lén đến ngoài thành, Nhạc liền phá cũi mà ra, mở toang cửa thành, đốt doanh trại, giết tướng giữ trấn, bèn chiếm cứ thành Quy Nhơn…
Nhưng ở đây, theo lời chua trong Cương Mục thì thành Quy Nhơn lúc ấy lại chính là Thành Đồ Bàn ngày xưa [3]. Như vậy có hay không có việc đã chuyển dời lỵ sở Phủ Thành Quy Nhơn từ Phường Hoa Phúc (Nhơn Thành bây giờ) trở lại Đồ Bàn ngay trong thời Chúa Nguyễn Phúc Khoát cai trị Đàng Trong, hay vào thời Chúa Nguyễn Phúc Thuần sau đó. Hay là Cương Mục đã chép sai !
Lần theo sách Đại Nam Thực Lục Tiền Biên – nxb Giáo Dục năm 2001, đây là bộ sử biên niên của Quốc Sử Quán nhà Nguyễn đã được Viện Sử Học phiên dịch và hiệu đính, cho in lại. Trong Quyển 10, niên đại 1742 có chép :
Nhâm Tuất, năm thứ 4 [1742], đổi phủ Quy Ninh làm phủ Quy Nhơn, phủ Diên Ninh làm phủ Diên Khánh…
Tìm đến năm 1744 để xác định lại năm Chúa Phúc Khoát cho dời phủ lỵ Quy Nhơn ra phía Bắc thành Đồ Bàn thì chỉ thấy trong năm nầy nói những việc Chúa đúc ấn Quốc vương, truy tôn huy hiệu các đời, định lại triều phục… Liên quan đến Quy Nhơn thì chỉ có chép câu :
Các Dinh đặt Trấn thủ, Cai bạ, Ký lục để cai trị. Duy 2 phủ Quảng Ngãi và Quy Nhơn lệ thuộc vào Dinh quảng Nam thì đặt riêng chức Tuần phủ và Khám Lý để cai trị…
Không biết Thực Lục Tiền Biên của Viện Sử Học in năm 1962 có khác gì với Bộ Thực Lục tái bản năm 2001 hay không. Hiện nay với bộ Đại Nam Nhất Thống Chí – nxb Thuận Hóa năm 2006, trong Tập 3, Quyển 9 nói về Tỉnh Bình Định cũng không thấy dấu vết gì việc dời Phủ Thành Quy Nhơn ra ngoài phía Bắc Thành Đồ Bàn vào năm 1744, như Địa Chí Bình Định đã trích dẫn là có chép trong Tiền Biên của Viện sử Học bản in năm 1962. Như vậy có điều gì đã gây ra sự rối rắm ở trong các bộ sử của Quốc Sử Quán (!?)
Thư tịch cổ ngày xưa còn có Đồ Bàn Thành Ký, là phần cuối trong cuốn Nguyễn Thị Tây Sơn Ký [4] của cụ Hoàng giáp Nguyễn Văn Hiển người Cát Hanh – Phù Cát, Bình Định (1827 – 1865), bài ký có nhắc đến phủ thành Quy Nhơn nằm ở phía ngoài Thành Đồ Bàn. Theo bản dịch của cụ Tô Nam Nguyễn Đình Diệm (chuyên viên Hán học của phủ Quốc Vụ Khanh Đặc Trách Văn Hóa), in trong Tập San sử Địa số 19 & 20 – Sài Gòn 1970 có đoạn :
Sau lưng Thành Chàm có núi Thập Tháp, trước mặt núi có ngôi chùa danh tiếng, là nơi tu hành của vị sư bên Tàu tên gọi Hoán Bích Hòa thượng, (chùa này xây dựng từ niên hiệu Chính Hòa năm thứ 4 tức đời Lê Hy Tông, DL 1684), trên biển có đề Thập Tháp Di Đà Tự chúa Nguyễn Hiển Tông Hiếu Minh hoàng đế ban cho (1691 – 1725). Cách hơn một dặm về phía tây, làm cây thông reo, tốt tươi xanh mướt, đó là Văn Miếu thờ đức thánh Khổng. Phía đông miếu còn nền móng lũy xưa đó là bức thành của phủ Quy Nhơn ngày trước (thành này thuộc huyện Phù Cát), cách hơn dặm về phía bắc thành Đồ Bàn là nơi trước kia Nguyễn Nhạc tụ họp quân Mán kéo xuống đánh thành Quy Nhơn, rồi tu sửa thành Đồ Bàn để làm quốc đô, còn nền móng thành Quy Nhơn phế bỏ…
Tựu chung các sách sử nói về phế tích Phủ Thành Quy Nhơn chắc chỉ có bài ký của cụ Hoàng giáp là nhắc rõ hơn cả. Cụ Nguyễn Văn Hiển và em là Nguyễn Văn Sách cùng đỗ Cử nhân khoa Bính Ngọ năm Thiệu Trị 1846, năm sau thi Hội ông đỗ Tiến sĩ Đệ nhị giáp, làm quan tới chức Tuyên phủ sứ đạo Phú Yên. Gốc quê ông ở xã Mỹ Chánh huyện Hải Lăng (Quảng Trị), nhưng sinh ở làng Vĩnh Ân, Phù Cát nên thường gọi là Ông Hoàng giáp Vĩnh Ân. Theo Nguyễn Phu và Nguyễn Thiều trong cuốn Các Nhà Khoa Bảng Bình Định Dưới Triều Nguyễn (nxb Thuận Hóa 2004) thì sau khi đỗ ông được bổ Hàn lâm Tu soạn, sau thăng Hàn lâm Thị Độc, nhưng vì mẹ già yếu nên xin về quê phụng dưỡng. Sau đó lại được triều đình bổ Đốc học, hàm Hàn lâm Thị Giảng, rồi thăng Án sát Quảng Ngãi. Ông mất năm 39 tuổi khi còn tại chức Tuyên phủ sứ ở Phú Yên. Nghe truyền rằng ông có trí nhớ giỏi không khác gì Lê Quý Đôn. Trong Đồ Bàn Thành Ký ông có nói ông soạn bài nầy thể theo lời yêu cầu của quan Hộ đốc họ Bùi khi về trị nhậm ở Bình Định. Như vậy bài ký nầy có thể được làm trong khoảng thời gian ông về Vĩnh Ân – Phù Cát phụng dưỡng mẹ già.
Không phải ai cũng có thiên năng bẩm sinh như Hoàng giáp Vĩnh Ân Nguyễn Văn Hiển hoặc Quế Đường Lê Quý Đôn để đủ điều kiện đọc, hiểu, biết hết những tri thức của nhân loại, những di cảo của người xưa. Sách vở chỉ là một trong những mối dây. Những khẩu truyền trong dân gian, những di chỉ, những dấu vết sinh sống, xây dựng… của người xưa là những mối dây khác nữa. Tìm lại quá khứ không thể thậm tin vào sách, cũng không thể hời hợt đào xuống bới lên. Chắc có lẽ cũng không quá hời hợt, cũng không quá thậm tin nên hiện nay ở Bình Định đã có bia Di tích lịch sử Phủ Thành Quy Nhơn, đặt tại Phường Nhơn Thành, Thị xã An Nhơn. Gọi nơi đây là lỵ phủ Quy Nhơn dưới chính quyền nhà Nguyễn Đàng Trong thời Trịnh Nguyễn phân tranh, năm 1773 nghĩa quân Tây Sơn đánh chiếm và dùng làm căn cứ quân sự.
Tấm bia trên kia đã mặc nhiên công nhận : với Di tích Phủ Thành Quy Nhơn, những ghi chép lưu truyền trong dân gian đã có giá trị thực hơn những gì sử thần đã chép.
Nói cho cùng, Phủ Thành Quy Nhơn hồi ấy tọa lạc tại vùng Nhơn Thành bây giờ, xem ra nó tồn tại chỉ khoảng 30 năm, trong thời gian đó nó không nói hơn được điều gì về mặt lịch sử ngoài chiến tích nghĩa quân Tây Sơn hạ thành khá ly kỳ, huyền thoại. Lịch sử Thành trì của Quy Nhơn hầu như đã dồn nén hết vào Thành Đồ Bàn cũ. Khi Nhà Tây Sơn sửa chữa Thành Đồ Bàn làm Thành Hoàng Đế cho triều đại mới, sau đó ở đây đã chính là nơi xuất binh vào Nam quét sạch 300 chiến thuyền Xiêm La do Phúc Ánh lưu vong rước tới, là nơi xuất binh vượt ra Bắc xóa tan phủ Chúa, để rồi sau đó đánh tan 20 vạn hùng binh Mãn Thanh do Duy Kỳ khất lân lĩnh về. Nhưng cũng chính nơi đây trào tuôn những giọt nước mắt khóc cho cảnh anh em, chú cháu bất hòa đem binh vây hãm, nồi da xáo thịt bắn giết nhau. Cũng chính nơi đây sau đó chẳng bao lâu, đại binh Phú Xuân hơn một năm trời công phá đã tiến vào thành mà tha hết quân binh giữ thành, chẳng giết một ai, thể theo lời thỉnh cầu của 2 chủ tướng họ đã xin trước khi tự thiêu, uống thuốc độc tuẫn tiết.
Thành trì là nơi để tứ dân an toàn trú ngụ yên ổn mưu sinh. Nhưng bi hùng của Thành trì là mang mang đâu đó câu nhất tướng công thành vạn cốt khô
 
——————————–
[1] Đại Nam Nhất Thống Chí – Quốc Sử Quán Triều Nguyễn – Viện Sử Học, nxb Thuận Hóa 2006 – Tập 3, trang 7
[2] Địa Chí Bình Định – Website Sở Khoa Học và Công Nghệ Bình Định : Bình Định Thiên Nhiên, Dân Cư và Hành Chính – Phần III Địa Chí Hành Chính – Chương XI Tổ chức Hành Chính và Bộ Máy Quản Lý Nhà Nước – Mục II Dưới Thời Các Chúa Nguyễn
[3] Trang 936 – Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục – nxb Giáo Dục 1998
[4] Sách do Trường Viễn Đông Bác Cổ in microfilm, được tàng trử tại Viện Khảo Cổ Sài Gòn trước năm 1975.

Thứ Năm, 30 tháng 7, 2015

NHÀ CỦA HOÀNG THÁI HẬU

Thăm ngôi nhà của Hoàng Thái Hậu cuối cùng triều Nguyễn

 Đây từng là ngôi nhà của Hoàng Thái hậu Từ Cung, vợ vua Khải Định, mẹ vua Bảo Đại. Bà là Hoàng Thái Hậu cuối cùng của triều Nguyễn, Hoàng Thái Hậu cuối cùng của chế độ 
 
phong kiến ở Việt Nam.
Khu nhà số 145 đường Phan Đình Phùng, Phường Phú Nhuận, thành phố Huế, bên dòng sông An Cựu, đã từng là nơi ở của Đoan Huy Hoàng Thái Hậu (tức Bà Từ Cung), vợ vua Khải Định (1916-1925), vị vua thứ 12 của triều Nguyễn và là mẹ vua Bảo Đại – vị vua cuối cùng triều Nguyễn trị vì từ 1926-1945.
Bà Từ Cung đã mua lại ngôi nhà này vào năm 1955, sau khi bị chính quyền Ngô Đình Diệm tịch thu cung An Định, vốn là biệt cung của triều Nguyễn dành cho Bà trước năm 1945 và vẫn là nơi ở của bà sau khi triều Nguyễn cáo chung. Bà sống tại khu nhà số 145 Phan Đình Phùng cho đến khi tạ thế vào năm 1980.
Trước khi mất, Bà đã có di nguyện giao lại khu nhà này cho chính quyền địa phương. Sau khi được giao tiếp quản khu nhà từ năm 1980, Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế (TTBTDTCĐH) chăm lo bảo quản công trình, thờ cúng và tổ chức trưng bày một số hiện vật còn lại của Bà Từ Cung để giới thiệu về công trình đã gắn liền với một phần đời của bà Hoàng Thái Hậu cuối cùng trong lịch sử các triều đại phong kiến Việt Nam.
Đến cuối năm 2014, xét thấy việc thờ cúng cũng như việc trưng bày hiện vật của Bà Từ Cung tại khu nhà trên chưa tương xứng với vị trí của Bà trong hoàng cung triều Nguyễn trước đây; sau khi tham vấn thêm ý kiến của Hội đồng Trị sự Nguyễn Phúc tộc và một số nhà nghiên cứu văn hóa Huế, TTBTDTCĐH đã cho chuyển toàn bộ án thờ cũng như các hiện vật liên quan sang cung An Định và tổ chức trưng bày tái hiện không gian sinh sống của gia đình vua Bảo Đại, đồng thời thực hiện việc thờ cúng Bà Từ Cung tại khu vực Khải Tường lâu của cung An Định.

25711-225df
Ngôi nhà của Hoàng Thái hậu Từ Cung

Về tổng thể, khu nhà này được xây dựng vào những năm đầu thế kỉ XX theo phong cách kiến trúc Đông Dương, đã được Bà Từ Cung cho mở rộng, sửa sang thêm sân vườn sau khi mua lại năm 1955. Qua một thời gian dài và do khí hậu khắc nghiệt, khu nhà này đã bị xuống cấp, hư hỏng nhiều.
Với mục đích “lưu niệm” một công trình có dấu ấn của một nhân vật trong lịch sử triều Nguyễn, tạo một điểm nhấn cho cộng động địa phương và du khách tham quan có cơ hội trải nghiệm những giá trị lịch sử, văn hóa Huế theo một hình thức mới: tìm hiểu lịch sử - văn hóa kết hợp nghỉ ngơi, thư giãn; được sự đồng ý của UBND tỉnh và sự tham gia góp ý của Hội đồng Trị sự Nguyễn Phúc tộc cũng như một số nhà nghiên cứu Huế, TTBTDTCĐH đã cho chỉnh trang, nâng cấp khu nhà và giao cho Trung tâm Phát triển Dịch vụ Di tích Huế (một đơn vị trực thuộc Trung tâm) triển khai hoạt động dịch vụ văn hóa, phục vụ khách tham quan và nhân dân địa phương.
Theo TS. Phan Thanh Hải, Giám đốc TTBTDTCĐH: “Điểm nhấn của các hoạt động dịch vụ tại khu vực này là ngôi nhà 2 tầng xây dựng theo phong cách kiến trúc Đông Dương. Trong đó, tầng 1 và 2 của ngôi nhà là nơi trưng bày, giới thiệu các hình ảnh tư liệu về vua Khải Định, Đoan Huy Hoàng Thái Hậu, gia đình cựu hoàng Bảo Đại và về Tôn Nhân Phủ.

25714-b2ae4
Gian chính ngôi nhà

Đặc biệt, tại tầng 2 có bố trí 1 phòng rộng nhất dành cho Hội đồng Trị sự Nguyễn Phúc tộc sử dụng để họp công việc của hội đồng; 1 phòng chính giữa lập bàn thờ vọng Bà Từ Cung, 1 phòng thư viện của Hội đồng Trị sự Nguyễn Phúc tộc. Các phòng còn lại ở 2 tầng được bố trí bàn ghế phục vụ du khách và nhân dân đia phương có nhu cầu nghiên cứu, tìm hiểu về gia phả Nguyễn Phúc tộc, triều Nguyễn và văn hóa Huế.
Đến với địa điểm này, du khách có thể tìm hiểu về lịch sử của ngôi nhà, lắng nghe những câu chuyện về cuộc đời thăng trầm của Hoàng Thái Hậu cuối cùng của triều Nguyễn, nhìn ngắm những hàng cây, những bụi hoa, những góc vườn, lối đi một thời đã in dấu chân Bà. Không gian này sẽ được nối kết với Khải Tường Lâu, cung An Định trong một định hướng xây dựng tuyến tham quan tìm hiều về đời sống của gia đình hoàng đế cuối cùng của triều Nguyễn cũng như tìm hiều về Hoàng thái hậu Từ Cung.
Dưới đây là những hình ảnh của dịch vụ văn hóa vừa được đưa vào hoạt động tại nhà Hoàng Thái hậu Từ Cung

25712-6726d
Sân vườn nhà của mẹ vua Bảo Đại

25713-60c08
Du khách tham quan ngôi nhà

25715-1e67e
Nhiều bàn ghế được bố trí để du khách ngồi uống nước, cafe tại tầng 1

25716-6fb6d
Cầu thang dẫn lên tầng 2

25721-dfc09
Nền gạch hoa xưa vẫn còn sắc nét

25718-f181d
Án thờ của Hoàng Thái hậu đặt giữa gian tầng 2

25717-95894
Bàn để hội họp dành cho Hội đồng Trị sự Nguyễn Phúc tộc

25719-6f591
Các cửa lớn nhìn xuống sân từ tầng 2

25720-578a3
Mặt phía sau tầng 2 ngôi nhà

25722-ab9cb
Sân vườn xung quanh nhà được cải tạo và bán nước giải khát lấy nguồn thu

25723-484d5
Nhiều ảnh liên quan đến cuộc đời của bà Từ Cung - Hoàng Thái hậu cuối cùng triều Nguyễn (ảnh) được treo ở 2 tầng tòa nhà. Hiện vật còn lại tại đây không có gì nhiều do thời gian và mất mát qua chiến tranh

25724-05668
Ảnh của con trai Hoàng Thái hậu Từ Cung: vua Bảo Đại và Hoàng hậu Nam Phương

25725-9930a
Những người cháu xinh đẹp của bà Từ Cung

Đại Dương

TIẾNG VIỆT

Những” ngôn từ” tuyệt vời trong tiếng Việt,
 
Tình cờ đọc bản dịch  bài viết “ Bài ngợi ca chữ Ơi” của Erin Khuê Ninh (*)  gợi cho tôi nhớ lại trong văn nói (ngôn từ) của ngưởi Việt Nam từ ngàn xưa cho đến ngày nay, ai ai cũng đã thốt ra ở cuối câu nói của mình một cách hết sức tự nhiên trong trò chuyện, giao tiếp giữa gia đinh, bạn bè, xã hội … làm cho câu nói của mình trở nên thân thiện hơn, tình cảm hơn.
 
 Đấy là một văn nói thật riêng biệt của người Việt Nam mà có lẽ không có một ngoại ngữ nào có thể chuyển dịch được cả ý và từ, như  Eric Khuê Ninh đã đánh giá về từ “Ơi “ trong “ Bài  ngợi ca chữ Ơi” vậy.
 
Tuy nhiên trong ngôn từ Việt không chỉ một từ “Ơi” mà hãy còn rất nhiều từ khác cũng được dùng ở mỗi cuối câu nói, lời nói trong dân gian mà theo đó, nó còn thể hiện cả cá tính, đặc trưng của người dân ở 3 miền Bắc, Trung, Nam mà hễ khi vừa nghe qua là đã nhận biết ngay đấy là người dân ở miền nào rồi.
 
-         Ví như khi nghe câu “Kính chào Bác ạ”, “Thưa vâng ạ”  trong lời chào hay thưa gửi ở miền Bắc hay những lời nói thân thiện trong giao tiếp bạn bè “Nhớ nhé”, “ Xinh quá nhỉ”, “Đẹp lắm cơ” …thì cho dù không nghe trực tiếp giọng nói nhưng ta cũng nhận ra đấy là người ở miền Bắc Việt Nam.
 
-         Và khi đến miền Trung, ta sẽ nghe những lời nói như ru của các Mệ, các chị, các o Huế từ trường học cho đến nông thôn, chợ búa với những câu “Đi mô rứa ?”, “Mần răng “, “ Khó quá hỉ”  , với những từ cuối câu đó không ai là không nhận ra đấy là ngôn từ của người miền Trung Việt Nam.
 
-         Rồi khi đi xuống miền Nam với ao vườn sông nước cò bay thẳng cánh thì  đi đâu, ghé thôn xóm, gia đình nào ta cũng nghe những tiếng gọi hết sức thân thương thân ái của những đứa con, đứa em hay người vợ người chồng gọi nhau í ới ngoài đồng “ Má ơi ”, “ Tía ơi”, “ Anh Hai ơi”, “ Cưng ơi” … Hoặc khi đặt câu hỏi hay dặn dò “Không được hả”, “Về nha”, “Nhớ nha”,  “Nhớ nghen”, “Mạnh nghen”… là ta biết đích thực đấy là dân miền Nam.
     ·        Nói chung, những ngôn từ “ Nhỉ ! Nhé ! Ạ ! Cơ! Rứa! Răng, Hỉ! Ơi! Hả!, Nha!, Nghen !… đều là những từ được phát ra cuối câu nói trong giao tiếp hết sức bình dân và thân thiện của người Việt Nam trải dài theo địa hình từ Nam ra Bắc đó luôn là những từ  tự nhiên được xuât phát từ mọi tầng lớp xã hội không phân biệt giàu nghèo, sang hèn mà người Việt Nam chúng ta sẽ mãi mãi được tự hào và xứng đáng được giới thiệu trên Văn Đàn Quốc Tế vì đấy là những ngôn từ đặc trưng của người Việt Nam mà chắc chắn là không thể nào chuyển dịch ra Ngoại Ngữ một cách chính xác được.
          TX Oct, 2014 - ThuHoaNguyen
 

CÁCH CHẾ BIẾN BÒ VIÊN

Rùng mình với công nghệ chế biến bò viên bằng thịt thối và hóa chất


Mới đây, đoàn kiểm tra liên ngành an toàn vệ sinh thực phẩm huyện Bình Chánh (TP.HCM) vừa phát hiện một cơ sở sản xuất bò viên từ thịt thối và hóa chất.
alt
Thịt hôi thối dùng để chế biến bò viên
Theo đó vào sáng 9/6, đoàn kiểm tra liên ngành an toàn vệ sinh thực phẩm  huyện Bình Chánh đã bất ngờ kiểm tra cơ sở   Pháp – Việt ở đường Nữ Dân Công (thuộc ấp 3, xã Vĩnh Lộc A, huyện Bình Chánh, TPHCM) do ông Nguyễn Văn Bảo làm chủ .
Tại thời điểm kiểm tra, lực lượng chức năng rất bất ngờ khi bên trong cơ sở này mùi hôi thối bốc lên nồng nặc, khiến một số người dù đeo khẩu trang vẫn phải chạy ra ngoài nôn mửa và hít thở không khí rồi mới tiếp tục kiểm tra.
Bên trong cơ sở ẩm ướt, chật chội và hầu hết công nhân nam đều ở trần, mặc quần đùi mồ hôi nhễ nhại đang ngồi xay thịt bằng chiếc máy xay rỉ sét được đặt trên nền nhà dơ bẩn. Các thau nhôm, rổ nhựa đựng thịt heo, mỡ heo, thịt gà, bò vụn.. bốc mùi rất nặng được xếp chồng lên nhau. Máu và nước màu đen rỉ  chảy xuống sàn nhà thành dòng. Bên trong kho lạnh, các kệ đựng nguyên liệu đã rỉ sét, dơ bẩn.
alt
Nền nhà và các dụng cụ chế biến rất dơ bẩn: Ảnh:NLĐ
Ngoài ra, đoàn kiểm tra còn phát hiện cơ sở này sử dụng chất bảo quản có tên Sodium Benzoate (do Trung Quốc sản xuất) để chống mốc cho bò viên. Đây là chất cấm dùng trong thực phẩm chế biến sử dụng nguyên liệu thịt. Đặc biệt, tại thời điểm kiểm tra, đoàn phát hiện 340 ký thịt heo, bò vụn đã hôi thối và biến chất.
alt
Hóa chất có nguồn gốc từ Trung dùng để làm bò viên không bị mốc. Ảnh: NLĐ
Tuy nhiên, sau khi những công nhân cho hóa chất vào và luộc lên thì những cục bò viên trở nên vàng ươm rất bắt mắt.
Ông Bảo khai, bò viên thành phẩm bán ra thị trường với giá sỉ chỉ khoảng 50.000 đồng/kg. Nơi tiêu thụ nhiều nhất là các quán hủ tiếu, chả cá viên bình dân. Mỗi ngày cơ sở của ông Bảo tung ra thị trường từ 300 – 400 kg.
alt
Bò viên sau khi chế biến từ thịt thối có màu vàng tươi, rất bắt mắt
Được biết cơ sở của ông Bảo đi vào hoạt động khoảng 6 tháng nay và chưa có giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện vệ sinh an toàn thực phẩm, công nhân chưa được khám sức khỏe và tập huấn kiến thức.
Còn nguyên liệu để chế biến, ông Bảo khai thịt heo thì mua ở chợ đầu mối Bình Điền (quận 8), thịt gà đông lạnh mua ở quận Bình Tân, thịt bò mua ở chợ Bà Điểm (huyện Hóc Môn). Tất cả đều không có giấy tờ chứng nhận kiểm dịch.
Ngoài ra đoàn kiểm tra còn phát hiện tại cơ sở này có 100 kg bột ngọt Trung Quốc, 70 kg đường Thái Lan trôi nổi, không nguồn gốc dùng chế biến bò viên. Toàn bộ tang vật tại cơ sở được ghi nhận trên 2,5 tấn (thịt tươi, thịt xay, thành phẩm, bột ngọt, phụ gia), ôngBảo đã viết đơn xin tiêu hủy toàn bộ mà không cần lấy mẫu xét nghiệm. Trong đó, có hơn 1,2 tấn bò viên thành phẩm chuẩn bị xuất bán ra thị trường.
Đoàn kiểm tra đã yêu cầu cơ sở ngưng ngay hoạt động, tạm thời giao chính quyền địa phương giám sát.

THANH VÀ TỤC TRONG THƠ HỒ XUÂN HƯƠNG

THANH VÀ TỤC TRONG THƠ HỒ XUÂN HƯƠNG

Xh 2 Ngồi buồn nhớ chị Xuân Hương
Hồn thơ còn hãy như nhường trêu ai..
(Giấc mộng con của Tản Đà)
Từ thời dựng nước dân tộc Việt Nam luôn luôn có truyền thống chiến đấu chống ngoaị xâm dành độc lập bảo vệ quê hương, trong quá trình đó người phụ nữ cũng đã đóng góp rất đáng kể, tiêu biểu là cuộc khởi nghiã của Hai Bà Trưng (40-30 trước CN) và Bà Triệu (năm 248) với những chiến tích oai hùng trong lịch sử Việt Nam. Những thế hệ kế tiếp các bậc nữ lưu cũng giúp việc nước, lo việc nhà và đã đóng góp cho lâu đài văn hóa dân tộc như các các nhà thơ nổi tiếng: Đoàn Thị Điểm dịch giả Chinh Phụ Ngâm khúc của Đặng Trần Côn, Ngọc Hân công chúa với Ai Tư vãn. Lưu thị Hiền (bà Phủ Ba) Ngô Chi Lan Ỷ Lan Phu nhân, Huyện Thanh Quan, Sương Nguyệt Ánh…, trong đó nữ sĩ Hồ Xuân Hương ở thế kỷ thứ 18 nổi tiếng là Bà Chúa Thơ Nôm [1]
Hồ Xuân Hương và thân phận 
Hồ Xuân Hương con ông Hồ Phi Diễn 胡丕演 (1703-1786)[2] ở làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, Nghệ An. Ông thi đậu tú tài năm 24 tuổi triều đại Lê Bảo Thái và dạy học ở Hải Hưng, Hà Bắc. Tại đây ông đã lấy cô gái Bắc Ninh họ Hà làm vợ thứ, sinh ra Hồ Phi Mai (1772-1822), nghiã là Hoa mai bay trên hồ, bút hiệu Xuân Hương, lúc Xuân Hương 13 tuổi thân phụ mất, bà rời làng Khán Xuân theo mẹ về làng Thọ Xương gần Hồ Hoàn Kiếm, đi học một thời gian sau đó ở nhà giúp việc. Xuân Hương tự học thêm, nhờ thông minh làm thơ hay, tiếng tăm lừng lẫy. Tổng Kình tên tự Nguyễn Công Hòa, ở làng Tứ Xã (huyện Phong Châu, Vĩnh Phú), khi bé  tên Cóc, sau nầy HXH gởi bài thơ „Khóc Tổng Cóc“ nên từ đó dân làng gọi ông là Tổng Cóc. Chuyện tình của bà với Tổng Cóc trở thành giai thoại, thân phụ của Xuân Hương là nhà giáo thời ấy gọi cụ Đố Xứ, Tổng Cóc và một số chàng trai khác chiều 30 Tết mang qùa biếu tết cụ Đồ, bị Xuân Hương ra câu đối
„Tối ba mươi khép cánh càn khôn kẻo nữa ma vương đưa quỷ tới“ 
Tổng Cóc đối lại:
„Sáng mồng một mở then tạo hoá để cho thiếu nữ rước xuân vào“ 
Xh 3Được cụ Đồ Xứ khen hay, có thể Xuân Hương mến mộ chàng có khiếu văn chương? Tổng Cóc đã lập gia đình nhưng là người có tiếng ăn chơi, tính tình nghệ sĩ thích văn thơ cưới Xuân Hương làm thứ thiếp. Tổng Cóc yêu thương vợ làm cái nhà thủy tạ cho bà trông coi ao cá và bảo nàng làm thơ viết vào gỗ, hiện nay tại nhà thờ của ông Kiều Phú, thôn Đại Đình, xã Sơn Dương, Phong Châu, Vĩnh Phú còn tấm ván mít ghi những nét thơ Nôm của Hồ Xuân Hương. Nhà ông Bùi Văn Thắng còn đôi bình và hai ống quyển ghi bút tích 4 câu thơ trang nghiêm của HXH, nói đến tấm gương trong trắng (như người con gái trong trắng) khi xuân hết thì thợ trời cũng chịu. Chỉ còn biết dựa vào phúc đức …. khi ấy hương thơm sẽ tỏa khắp muôn nơi[3].
Thảo lai băng ngọc kính
Xuân tận hoá công hương
Độc bằng đan quế thượng
Hào phóng bích hoa hương
Nghiã
Nói đến tấm gương bằng ngọc
Hóa công cũng chịu lúc tàn xuân
Chỉ bằng lúc vin cành quế đỏ
Tha hồ hoa biếc tỏa hương thơm
Xuân Hương bản tính nghệ sĩ giao tiếp rộng, không thể vượt đời sống của làng quêtrọng nam khinh nữ, bởi vậy vợ chồng không tránh được việc va chạm hằng ngày trong xã hội phong kiến „Đau đớn thay phận đàn bà! Kiếp sinh ra thế, biết là tại đâu“. Xuân Hương bị vợ lớn ghen tương, gia đình chồng đè nén vì thân phận làm thứ thiếp. Nên bà chán ngán cảnh chồng chung bỏ nhà ra đi.
Kẻ đắp chăn bông, kẻ lạnh lùng
Chém cha cái kiếp lấy chồng chung!
Năm thì mười hoạ chăng hay chớ
Một tháng đôi lần có cũng không
Cố đấm ăn xôi, xôi lại hẩm
Cầm bằng làm mướn, mướn không công
Thân nầy ví biết dường nầy nhỉ
Thà trước thôi đành ở vậy xong 
Giáo sư John Balaban dạy đại học North Carolina ở Raleigh, cũng là nhà thơ dịch“ bài lấy chồng chung“ của Hồ Xuân Hương „Spring Essence“ the Poetry of HXH (nhà xuất bản Copper Canyon Press, 2000)
On Sharing a Husband
Screw the fate that makes you share a man.
One cuddles under cotton blankets; the other’s cold.
Every now and then, well, maybe or maybe not.
Once or twice a month, oh, it’s like nothing.
You try to stick to it like a fly on rice
but the rice is rotten. You slave like the maid,
but without pay. If I had known how it would go
I think I would have lived alone.
Chẳng riêng gì Xuân Hương, thân phận của người vợ thứ trong dân gian cũng là một nỗi buồn truyền kiếp:
 Tối tối chị giữ mất buồng
Chị cho manh chiếu nằm suông chuồng bò
Mong chồng, chồng chẳng xuống cho
Đến khi chồng xuống gà o o gáy dồn…
Hồ Xuân Hương mở quán làm kế sinh nhai, khách hâm mộ văn tài bà đến cùng xướng họa, có nhiều chuyện tình trở thành giai thoại. Xuân Hương lãng mạn, phóng khoáng bà muốn vượt qua bức tường nho giáo khắc nghiệt, nhưng không tránh được cái nghiệp tình duyên ngang trái. Xuân Hương gặp ông phủ Vĩnh Tường và làm bài thơ giã từ “khóc Tổng Cóc“.
Chàng Cóc ơi! Chàng Cóc ơi!
Thiếp bén duyên chàng có thế thôi
Nòng nọc đứt đuôi từ đây nhé
Nghìn vàng khôn chuộc dấu bôi vôi. 
Bài „khóc Tổng Cóc“gây nhiều dư luận trong văn học, những người ở làng Gáp cho rằng bài thơ đó khóc cho mối tình đầu của bà, từng khổ đau với hoàn cảnh làm vợ trong gia đình Tổng Cóc nên dùng những từ ngữ chỉ họ hàng nhà Cóc nào là nòng nọc đứt đuôi, để giễu Tổng Cóc (thơ gởi Tổng Cóc lúc còn sống chứ không phải khóc người chết). Một lần nửa Xuân Hương lập gia đình với ông phủ Vĩnh Tường cũng làm thứ thiếp, không tránh được cảnh khổ ghen tương cay độc như Hoạn thư: 
Rằng tôi chút dạ đàn bà,
Ghen tuông, thì cũng người ta thường tình 
Lòng riêng, riêng cũng kính yêu.
Chồng chung, chưa dễ ai chiều cho ai
Kiều của Nguyễn Du
Thời gian sống với ông phủ Vĩnh Tường (ở Thổ Tang, Vĩnh Phú) ông Phủ xem nàng là bạn văn chương. Nhưng số phận của Xuân Hương không được may mắn, cuộc tình ngắn ngủi hơn 2 năm sau phải khóc chồng, chồng chết là nỗi khổ đau nhất của người thiếu phụ, thương cho thân phận kẻ ở người đi. Xuân Hương buồn khổ trước cảnh nhà lạnh lẽo đơn côi, bà trang trải nỗi bi thương của mình trên những dòng thơ buồn não nuột, là tiếng nấc nghẹn ngào của người góa phụ vĩnh viễn xa chồng:
Trăm năm ông phủ Vĩnh Tường ơi!
Thiếp bén duyên nàng có thế thôi
Chôn chặt văn chương ba thước đất
Ném tung hồ thỉ bốn phương trời
Cán cân tạo hoá rơi đâu mất;
Miệng túi càn khôn thắt lại rồi
Hăm bảy tháng trời là mấy chốc;
Trăm năm ông Phủ Vĩnh Tường ơi!
 (Thơ và bạn đời) 
Các tác phẩm của bà bị thất lạc, đến nay còn lưu truyền những bài thơ chữ Nôm trong Xuân Hương Thi Tập, năm 1964 ông Trần Thanh Mại phát hiện thêm tập thơ chữ Hán Lưu Hương Ký 瑠香記 viết năm Giáp Tuất (1814). Hồ Xuân Hương là nhà Xh 1thơ sử dụng chữ nôm một cách điêu luyện và sắc sảo, ít người sánh kịp. Bà thường chọn những âm khó đọc để hạ vần nói lái, nghiã bóng thành những bài thơ rất tài tình và đầy thú vị trong đó ý thơ và tình thơ  bao gồm: đạo đức, tiếu lâm, hay châm biếm, độc đáo có một không hai trong văn chương bác học. Phần xướng hoạ có lẫn thơ của văn nhân thời bấy giờ để lại số đề tài khúc chiết, nồng nàn yêu đương. Cổ Nguyệt Hương Đình do Xuân Hương dựng lên ở phường Khán Xuân gần Hồ Tây khu vực vườn Bách Thảo, trường Bưởi đường Cổ Ngư làng Yên Phụ. Thơ tả chân táo bạo diễn tả ý tưởng lả lơi bỡn cợt, vừa thanh vừa tục mà không kém phần lãng mạn. Tình yêu, tình bạn của Xuân Hương có rất nhiều nghi vấn, khó xác định cảnh đời từng trải của Xuân Hương. Các tài liệu dẫn chứng Xuân Hương giao du rộng rãi với những danh sĩ như Phạm Quí Thích (khắc và in thơ của Nguyễn Du), Nguyễn Huy Tự (Tác giả Hoa Tiên), Nguyễn Du, Mai Sơn Phủ, Tốn Phong, Cư Ðình, Trần Quang Tĩnh, và Trần Phúc Hiển, v.v.  Học giả Hoàng Xuân Hãn dẫn chứng bà có 3 đời chồng, người cuối cùng là Tham hiệp trấn Trần Phúc Hiến? Trong vấn đề xướng họa thơ văn, một đối thủ của Xuân Hương được lưu lại là Chiêu Hổ tức Phạm đình Hổ (1768-1839), là tác giả Vũ Trung Tuỳ Bút, bút hiệu Chiêu Hổ, lần ông đến thăm Xuân Hương có ý sổ sàng bị Xuân Hương chê suồng sã
Anh đồ tỉnh, anh đồ say
Sao anh ghẹo nguyệt giữa ban ngày
Này này chị bảo cho mà biết
Chốn ấy hang hùm chớ mó tay.. 
Hùm có nghiã là hổ, Chiêu Hổ bị Xuân Hương chơi chữ, ông không chịu thua cợt nhả đối lại:
Này ông đồ tỉnh, nầy ông đồ say,
Này ông ghẹo nguyệt giữa ban ngày!
Hang hùm ví bẵng không ai mó,
Sao có hùm con ẵm chốc tay? 
Năm 1842 Tùng Thiện Vương ra thăm cảnh Hồ Tây có làm bài thơ viếng mộ Xuân Hương „Long Biên Trúc Chi Từ“ bản dịch ra Việt ngữ của học giả Hoàng Xuân Hãn
Đây hồ rực rỡ hoa sen
Sai người xuống hái để lên cúng đàn
Chớ trèo qua mộ Xuân Hương
Suối vàng còn giận tơ vương lỡ làng
Sen tàn, phấn rữa mồ hoang
Xuân Hương đã khuất bên làn cỏ xanh
U hồn say tít làm thinh
Gío xuân mấy độ thế tình không hay!   
Ngày nay không thể tìm mộ của bà, tuy nhiên người ta dựng bia để tưởng niệm nữ sĩ Xuân Hương
 Những nét tiêu biểu trong thơ Hồ Xuân Hương 
Hồ Xuân Hương trưởng thành trong giai đoạn lịch sử chiến tranh, ảnh hưởng nặng nề phong kiến “nhất nam viết tử thập nữ viết vô”. Đàn bà ít được đi học, ứng thí như đàn ông, may mắn học ít chữ, lấy chồng sanh con lo việc nội trợ. Xuân Hương đã tỏ ra là một thiên tài, làm thơ khẩu khí khi bà bị trợt té người ta cười, bà làm ngay hai câu thơ để chữa thẹn:
Giơ tay với thử trời cao thấp
Xoạc cẳng đo xem đất vắn dài 
Hồ Xuân Hương thông minh, có tài nhưng tiếc thay sinh ra phận gái nên cái lỗi lạc của bà thành ra lãng mạn mà lắm người cho là “lẳng lơ“! Đọc mấy câu thơ sau của bà, dũng khí như một đấng tu mi nam tử. Khi XH đi qua miếu Sầm Nghi Đống tại Loa Sơn, là tên Thái thú  quân nhà Thanh thua trận thắt cổ chết trên cây đa ở gò Đống Đa mùng 5 tháng giêng năm Kỷ dậu 1789. Người Hoa lập miếu thờ, tin đồn miếu linh thiêng nên Xuân Hương đề mấy câu thơ[4] :
Ghé mắt trông nghiêng thấy bảng treo
Kià đền Thái thú đứng cheo leo
Ví đây đổi phận làm trai được
Thì sự anh hùng há bấy nhiêu?  
Xã hội thời phong kiến người ta quan niệm „trai năm thê bảy thiếp, gái chín chuyên chỉ một chồng“ thật là bất công! vấn đề đa thê ngày nay không được chấp nhận (ngoại trừ các nước theo Hồi Giáo). Ngày xưa chồng chết vợ phải thủ tiết thờ chồng. Xuân Hương muốn phá cái phong tục thời đó, nên lúc sống với ông Phủ Vĩnh Tường, có người góa phụ còn trẻ muốn được tái giá, làm đơn xin quan phủ xét, gặp lúc ông phủ đi vắng, Xuân Hương xem đơn và phê ngay :
Phó cho con Nguyễn thị Đào
Nước trong loe lẻo cắm sào chờ ai?
Chữ rằng xuân bất tái lai
Cho về kiếm chút kẻo mai nữa già. 
Tuy nhiên có tài liệu cho giai thoại nầy là của bà Huyện Thanh Quang, nhưng theo nhận xét chung lối hành văn nầy không thể nào của bà Huyện Thanh Quang? Những bài thơ tuyệt tác của Xuân Hương được lưu truyền hậu thế. Biệt tài thơ Xuân Hương dùng chữ Việt thuần tuý, không vay mượn điển tích sáo ngữ, đọc thơ hiểu được nghiã đen và nghiã bóng.
Bài „Ngủ quên hay ngủ ngày„ Thiếu nữ nằm nghỉ buổi trưa hè trời nóng, cơn gió nồm mát rười rượi làm nàng  ngủ quên, giấc ngủ say sưa vô tình bày ra thân hình trẻ trung, mơn mởn da thịt với những đường nét tuyệt vời sống động…
809720qp789lf9vzMùa hè hây hẩy gió nồm đông
Thiếu nữ nằm chơi quá giấc nồng
Lược trúc chải cài trên mái tóc,
Yếm đào trễ xuống dưới nương long

Đôi gò Bồng Đảo sương còn ngậm
Một lạch Đào Nguyên suối chửa thông
Quân tử dùng dằng đi chẳng dứt
Đi thì cũng dở ở không xong.
 Cái đẹp bất cứ ở đâu đều được mọi người yêu chuộng, người trần tục thấy hoa đẹp ai không muốn nhìn? Bồng Đảo, Đào Nguyên là cảnh tiên, Lạch Đào Nguyên suối hoa đào đều là cái đẹp của sự sống. Từ xưa và nay nhiều nhà phê bình bàn cãi tranh luận về thơ Xuân Hương mang tính chất dâm và tục, sinh lý bị đè nén “Libido”.Ngược laị người yêu thơ Xuân Hương thường hết lời ca tụng,  xem những sáng tác của Xuân Hương kỳ diệu từ cách dùng chữ chính xác,  âm điệu kỳ tài. Cái đặc điểm trong thơ Xuân Hương là tả cái tục nhưng dùng toàn chữ thanh, nếu đọc bốn 4 câu thơ sau người ta hiểu tả một ông quan võ nhưng không phải vậy.
Bác mẹ sinh ra vốn chẳng hèn
Ban đêm không mắt sáng như đèn
Đầu đội nón da loe chóp đỏ
Lưng đeo bị đạn rủ thao đen
tựa là “dương vật”
nguoiĐể có thể thẩm định thế đứng của nhà thơ nầy, nói về Văn học không thể đọc một số bài thơ rồi cho là dâm tục có quá đáng chăng? Bởi vì vấn đề Tình Dục từ Á sang Âu thường được trình bày qua các tác phẩm văn chương, những hình vẽ, tượng điêu khắc chạm trổ trong các Cung điện, Đền đài lưu lại từ ngàn năm về trước có những nét đẹp độc đáo như thân thể đàn bà qua những đường cong tuyệt vời, bộ ngực no tròn lồ lộ dưới lớp xiêm y mỏng manh .. những tác phẩm đó thể hiện linh động nét văn hóa và sắc thái mang tính chất diễn tả về nghệ thuật. Mỗi dân tộc văn minh có sinh hoạt văn hoá khác nhau. Nhiều sắc dân họ thờ các bộ phận sinh dục, dân tộc Chàm xây các Tháp theo hình tượng Lingam (dương vật) tình dục được nói bình thường trong sinh hoạt của con người.
So sánh Thơ Xuân Hương  với thi ca bình dân tục và thanh 
Xã hội bình dân xưa không thoát khỏi qui luật dục vọng cá nhân là lẽ sống con người, dục vọng tập thể là lẽ sống của xã hội. Bởi vậy ca dao được truyền tụng trong dân gian:
Có chồng từ thuở mười lăm.
Chồng chê tôi nhỏ không nằm cùng tôi.
Đến chừng mười chín đôi mươi.
Tôi ngủ dưới đất chàng lôi lên giường
Một rằng thương, hai rằng thương
Có bốn cẳng giường gãy một còn ba!
Ca dao
Đời sống con người được diễn tả qua thi ca trào lộng, vui cười vốn có trong thực tế không nói xa gần, hằng ngày người ta dùng cái điếu cày hút thuốc Lào, mồi đóm lửa,  kéo một hơi dài, nghe tiếng roc rách của nước…. Họ nhả những sợi khói từ từ và cảm thấy người bồng bềnh lướt nhẹ trên mây? tay mân mê xoa xoa thân điếu như người bạn thân:
Lòng em cay đắng quanh năm
Khi ngồi, khi đứng, khi nằm nghênh ngang
Các anh các bác trong làng
Gặp em thì lại vội vàng nâng niu
Vắng em đau khổ trăm chiều
Tuy rằng cay đắng nhưng nhiều người mê
Ca dao
Trạng Quỳnh với bài tạ ơn cô hàng bánh:
Đương cơn nắng cực đói lòng thay
Thết đãi ơn cô có bụng nầy
Giờ biết lấy gì mà tạ lại
Xin quỳ hai gối chống hai tay 
Sinh hoạt xã hội bất kỳ ở tầng lớp nào, dục tính cá nhân vẫn len lỏi vào cuộc sống. Cái khác biệt toàn thể về bản chất không ai giống ai. Hồ Xuân Hương người trần tục nên ca tụng sinh họat trần tục và những niềm vui trần tục, đọc thơ Xuân Hương để tiếp nhận cái tinh thần hồn nhiên trong ca dao, tục ngữ. Tôi Không đào sâu cái „tục“ trong thơ làm đề tài chính. Thơ Xuân Hương rất sống động tài tình mang tinh hoa khác biệt, đó là một giá trị tồn tại mãi mãi trong lâu đài văn hoá dân tộc. Đọc hai bài thơ đèo Ngang và đèo Ba Đội sau để so sánh hai nữ sĩ:
Bước tới đèo ngang bóng xế tà
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa
Lom khom dưới núi tiều vài chú
Lác đác bên sông chợ (rợ) mấy nhà
Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia
Dừng chân đứng lại trời non nước
Một mảnh tình riêng ta với ta
Huyện Thanh Quan
Chúng ta cảm nhận bài thơ ấy hay nhẹ nhàng, trang nhã, bài nầy có 8 câu nhưng vay mượn ý của hai câu chữ Hán
Dạ thính đỗ quyên minh quốc quốc
Nhật văn cô điểu khiếu gia gia 
Nghiã là 
Đêm nghe đỗ vũ kêu quốc quốc
Ngày lắng gà rừng gọi gia gia 
Hồ Xuân Hương vịnh đèo Ba Đội là một bức tranh tả chân đơn sơ nhưng sống động:
Một đèo, một đèo lại một đèo
Khen ai khéo tạc cảnh cheo leo
Cửa son đỏ loét tùm hum nóc 
Hòn đá xanh rì lún phún rêu
Lắt lẻo cành thông cơn gió thốc
Đầm đià lá liễu giọt sương rơi
Hiền nhân quân tử ai là chẳng
Mõi gối chồn chân cũng muốn trèo 
Bài thơ nầy đọc qua độc giả có thể nhận ra ngay đó là đèo Ba Đội, „một đèo, một đèo lại một đèo“ từ màu sắc “cửa son đỏ lóet; tùm hum, xanh rì, lún phún, lắt lẻo“.. Xuân Hương đã tài tình tạo ra một bức tranh sống động từ âm thanh đến màu sắc. Nữ sĩ Xuân Hương là một nhạc sĩ tài tình, phối hợp cả âm thanh, màu sắc, không gian lẫn thời gian, tạo những nét đặc sắc thông thường ít nghe điệp âm „hõm hòm hom, toen hoẻn .. trong bài vịnh hang Cắc Cớ:
Trời đất sinh ra đá một chòm
Nứt làm đôi mảnh hỏm hòm hom
Kẽ hầm rêu mốc trơ toen hoẻn,
Luồng gió thông reo vỗ phập phòm
Gịot nước hữu tình rơi lõm bõm
Con đường vô ngạn tối om om
Khen ai đẽo đá tài xuyên tạc
Khéo hớ hênh ra lắm kẻ dòm 
Giọt nước từ những thạch nhủ rơi từng giọt xuống vũng nước bên dưới lõm bõm, con đường vào hang thiếu ánh sáng. Hàng năm có Hội Chùa Thầy du khách không vào hang Cắc Cớ thì coi như chưa biết Chùa Thầy.
Xuân Hương cũng vịnh cảnh Chùa Hương Tích ở huyện Mỹ Đức Hà Đông rất linh động với cảnh trời mây non nước..vào những ngày đầu xuân, hội Chùa Hương nhộn nhịp, người tu hành thì ít, kẻ trần tục thì nhiều, muốn lên chùa phải trèo các bậc thang thì đúng hơn là đi, chen chân trong động với hương khói pha mờ mù sương.
Người quen cõi Phật chen chân xọc
Kẻ lạ bầu tiên mỏi mắt dòm…                                              
Bài „đánh đu“ bức tranh quê sống động tả cảnh vui xuân rộn rã, Xuân Hương khen trò chơi đánh du hấp dẫn gợi lên niềm say mê của ngày hội, Hiện nay các làng ngoài Bắc còn duy trì trò chơi nầy. Nhưng ngày xuân trôi qua cột nhổ đi rồi lỗ bỏ không, chỉ còn lại cảnh trống không hiu quạnh!
Bốn cột khen ai khéo khéo trồng
Người thì lên đánh, kẻ ngồi trông
Trai đu gối hạc khom khom cật,
Gái uốn lưng ong ngửa ngửa lòng
Bốn mảnh quần hồng bay phất phới
Hai hàng châu ngọc duỗi song song
Chơi xuân ai biết xuân chăng tá?
Cột nhổ đi rồi, lỗ bỏ không! 
Có thể Hồ Xuân Hương phỏng theo bài thơ trên bài cây đánh đu vốn có trong tập Hồng Đức Quốc Âm Thi Tập
Bốn cột lang nha ngắm để trồng
À thì đánh cái ả còn ngong
Tế hậu thổ khom khom cật,
Vái hoàng thiên ngửa ngửa lòng
Tám bức quần hồng bay phất phới,
Hai hàng châu ngọc đứng song song
Chơi xuân hết tấc xuân dường ấy
Nhổ cột đem về để lỗ không.
Chơi đánh đu, khi chàng trai nhấn đu cô gái trong tư thế tay nắm chặt, chân duỗi thẳng cho dễ bay bổng. Khi độ cao giảm đến lượt cô gái nhún, chàng trai lại chờ đón..tất cả phải nhịp nhàng, khoẻ mà mềm mại bay cao ung dung, vẻ đẹp càng hiện rõ hình thể bên ngoài gối hạc, lưng ong, ngửa ngửa lòng, phất phới, song song. Xuân Hương khéo dùng điệp khúc. Trong ngôn ngữ Anh, Pháp, Đức không khi nào gặp cách dùng chữ như trong văn chương Việt Nam. Chúng ta thử đọc các bài dịch đối chiếu thi sĩ Balaban có thể dịch cảnh thu, nhưng khó chuyển dịch được hơi thu!
Cảnh thu
Thánh thót tầu tiêu mấy hạt mưa,
Khen ai khéo vẽ cảnh tiêu sơ.
Xanh om cổ thụ tròn xoe tán,
Trắng xoá tràng giang phẳng lặng tờ.
Bầu dốc giang sơn say chắp rượu,
Túi lưng phong nguyệt nặng vì thơ.
Ơ hay, cảnh cũng ưa người nhỉ,
Ai thấy, ai mà chẳng ngẩn ngơ. 
Autumn Landscape
Drop by drop rain slaps the banana leaves.animaatjes-bloemen-05451
Praise whoever sketched this desolate scene:
the lush, dark canopies of the gnarled trees,
the long river, sliding smooth and white.
I lift my wine flask, drunk with rivers and hills.
My backpack, breathing moonlight, sags with poems.
Look, and love everyone.
Whoever sees this landscape is stunned.
From Spring Essence the poetry of HXH
Qua ca dao có nhiều bài truyền tụng nghe rất là „tục“ như vịnh cái quạt:
Rành rành ba góc rành rành
Khi khép nhỏ lại, khi vành to ra
Khi vui thì sướng thay là
Khi buồn thì nước chảy ra rì rì.. 
Hồ Xuân Hương tả cái quạt duyên dáng hơn, có tính cách tương tự như ca dao tục ngữ hài hước, tả cái quạt có nhiều nan, mỗi nan quạt có một cái lỗ, cây kim xâu các nan quạt vào. Sau đó bồi bằng giấy có thể xếp lại và xòe ra quạt cho mát, mưa sa nhẹ hạt có thể che đầu, lúc xếp quạt lại những nếp giấy chồng lên vẫn còn thừa. Xuân Hương tả cái quạt chỉ tám câu thơ bút pháp thật sinh động:
Một lỗ xâu xâu mấy cũng vừa
Duyên em dính dáng tự bao giờ
Chành ra ba góc da còn thiếu
Khép lại đôi bên thịt vẫn thừa
Mát mặt anh hùng khi nắng gió,
Che đầu quân tử lúc sa mưa
Nâng niu ướm hỏi người trong trướng
Phì phạch trong lòng đã sướng chưa … 
Thời xưa mỗi gia đình ở thôn quê, thường trồng cây bông, nuôi tằm, ươm tơ, làm lụa tự dệt vải may áo quần. Ban ngày làm việc đồng áng, đêm về dệt vải với dụng cụ đơn giản cái khung cửi, hai ống trục, một bộ go, hai cái lược, một đôi guốc, con suốt, con thoi (con cò bằng gõ). Xuân Hương tả cô gái dệt vải vào đêm; muốn vải phẩm chất tốt phải ngâm lâu, ba mùa thu cũng không bị phai màu.
Thắp đèn lên thấy trắng phau
Con cò mấp máy suốt đêm thâu
Hai chân đạp xuống năng năng nhắc
Một suốt đâm ngang thích thích mau
Rộng hẹp nhỏ to vưà vặn cả
Ngắn dài khuôn khổ cũng như nhau
Cô nào muốn tốt ngâm cho kỹ
Chờ đến ba thu mới dãi màu 
Chùa Quán Sứ được xây dựng từ thế kỷ thứ 17, nằm ở phố cũng mang tên Quán Sứ Hà Nội. Dân tộc Việt Nam ảnh hưởng Phật giáo dưới thời nhà Lý rất hưng thịnh, Phật, Pháp màu nhiệm không thay đổi, nhưng trong cõi đời nầy không thiếu những kẻ “mạt tăng” lợi dụng cửa Chùa rộng mở, cạo đầu núp dưới lớp áo cà sa để buôn thần, bán thánh…làm những việc trái với giáo lý nhà Phật. Xuân Hương không chống phá đạo Phật, dùng thơ văn để dỡn mặt với tăng giả, hay sư hổ mang như trong ca dao:
 Ba cô đội gạo lên Chùa
Một cô yếm thắm bỏ bùa cho sư
Sư về sư ốm tương tư,
Ốm lăn, ốm lóc nên sư trọc đầu
Ai làm cho dạ sư sầu,
Cho ruột sư héo, cho bầu đứt dây! 
Cảnh chùa Quán Sứ thời loạn làm cho Xuân Hương nghi ngờ người đã xuất gia, tu lâu năm lên làm “Sư Cụ” như “phiến đá vĩ đại “ bao che đệ tử gây nên nghiệp chướng, không lo làm tròn phận sự tụng kinh gõ mõ, bỏ cảnh chùa vắng teo. 
Quán sứ sao mà cảnh vắng teo
Hỏi thăm sư cụ đáo nơi nao
Chày kình,(1) tiểu để suông không đấm
Tràng hạt, vãi lần đếm lại đeo
Sáng banh không kẻ khua tang mít (2)
Trưa trật nào ai móc kẽ rêu
Cha kiếp đường tu sao lắt léo
Cảnh buồn thêm chán nợ tình đeo
                  ( Sư hổ mang)          
            ……………………………
Khi cảnh, khi tiu, khi chũm choẹ
Giọng hi, giọng hỉ, giọng hi ha
Tu lâu có lẽ lên Sư cụ
Ngất nghểu toà sen nọ đó mà 
(1) chày tạc hình con cá kình bằng gỗ, thay cho cái dùi đánh chuông. (2) Tang trống làm bằng gỗ mít
Nói chung người Phật tử chân chính phải bực mình khi đến Chùa không có thầy trụ trì hướng dẫn về phần tâm linh, Sư đi gây phiền não cho bá tánh, dù ở bất cứ thời đại nào cũng không thể chấp nhận việc làm vô ý thức đó.
Người đời nhớ Xuân Hương ở tiếng cười phá phách, nhưng trong lòng Xuân Hương mang nặng những niềm đau, khối tình nặng như đá, với những tâm sự thế thái nhân tình làm rung động, se thắc lòng người:
Gan nghiã giãi ra cùng nhật nguyệt
Khối tình cọ mãi với non sông
Đá kia còn biết xuân già dặn
Chả trách người ta lúc trẻ trung
(Đá ông chồng, đá bà chồng)
hoặc qua bài tình tự
Canh khuya văng vẳng trống canh dồn
Trơ cái hồng nhan với nước non
Chén rượu hương đưa đưa say lại tỉnh
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn!
Xiên ngang mặt đất rêu từng đám,
Đâm toạc chân mây đá mấy hòn
Ngán nỗi xuân đi, xuân lại lại
Mảnh tình san sẻ tý con con. 
Xuân Hương vịnh bánh trôi nước, thức ăn quen thuộc của người bình dân. Thân em ở đây (Xuân Hương) hay là thân phận đàn bà dưới thời phong kiến lắm lận đận, nhiều long đong? nhưng tấm lòng nàng vẫn giữ sắt son:
Thân em trắng phận em tròn
Bảy nổi ba chìm với nước non
Lớn nhỏ mặc dầu tay kẻ nặn
Mà em vẫn giữ tấm lòng son                                  
Thơ Hồ Xuân Hương có phong cách riêng, tiêu biểu cho thái độ tự nhiên, tình cảm tràn đầy trong sáng, thơ bà rất bình dân, duyên dáng giàu khả năng gợi cảm, gợi tình, chứa chan tình tự và cảm khoái, không dùng hán tự điển tích. Bà có biệt tài sử dụng điệp khúc, âm điệu, tiết tấu thích hợp với từng ý, từng hoàn cảnh. Dù muốn chê hay khen, đọc thơ Xuân Hương ta cảm thấy cái vui vui xen lẫn vào hồn, cái hay trong thơ Xuân Hương rất tuyệt vời và phong  phú, nhưng bài viết giới hạn, tôi không thể trình bày và trích giải hết được..Hồ Xuân Hương là nhà thơ độc đáo có một không hai trong văn học sử Việt Nam.
Nguyễn Quý Đại
Tài liệu tham khảo
Nghĩ về thơ HXH.cuả Gs Lê Trí Viễn, Ng Đức Quỳnh…
Hồ Xuân Hương toàn tập giáo sư Ngô Lãng Vân
Nhà Tây Sơn  Trần Gia Phụng NxB Non Nước Toronto 2005
Hình trên Internet.

[1] Chữ Nôm có vai trò nổi bật trong sáng tác văn chương. Mặc dù văn nhân, thi sĩ mọi thời đều đã dùng chữ Hán làm thơ, viết truyện, nhưng chỉ có với chữ Nôm, người Việt mới tạo nên những tác phẩm bất hủ. Tập thơ Nôm có niên đại sớm nhất còn lưu truyền là Quốc âm Thi tập của Nguyễn Trãi (1380 – 1420) sau đó là Bạch vân Am quốc ngữ thi của Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585).  Văn học Việt nam qua các thời đại, chữ Hán các tiền nhân viết những tập truyện ngắn và tiểu thuyết văn xuôi, còn với chữ Nôm gần như các cụ chỉ làm thơ Sở trường và thành công bằng hai thể thơ giàu dân tộc tính này, vào cuối thế kỷ XVII và đầu thế kỷ XIX Văn học cổ điển Việt Nam có những tác phẩm xuất sắc khiến thế giới phải biết đến là Chinh phụ Ngâm khúc của Đoàn Thị Điểm (1705 – 1748); Truyện Kiều (Đoạn trường tân thanh) của Nguyễn Du (1766 -1820). Chúng ta còn các tên tuổi sáng giá khác nữa từ thế kỷ XVII đến đầu thế kỷ XX như: Nguyễn Huy Tự, Nguyễn Gia Thiều, Phạm Thái, đặc biệt thơ cuả Hồ Xuân Hương, Nguyễn Đình Chiểu, Nguyễn Công Trứ, Trần Tế Xương v.v. ..Chính nhờ ở những tác giả này, tiếng Việt hấp thụ hai nguồn văn tự là chữ Hán và văn tự văn hóa dân gian, chữ Nôm để trở thành một ngôn ngữ văn học sáng chói và giàu sức diễn đạt
[2] Hồ Sĩ Anh đời nhà Lê sinh bốn người con trai: Hồ Thế Viêm, Hồ Phi Quyền, Hồ Phi Cơ, ông Hồ Phi Tích (1665-1734) đậu Hoàng giáp năm 1700). Hồ Thế Viên là ông Tổ bốn đời của anh em nhà Tây Sơn đã đổi từ họ Hồ sang Nguyễn, còn Hồ Phi Cơ là ông tổ bốn đời cuả Hồ Phi Mai tức nữ sĩ Xuân Hương. ( Phi Cơ, Phi Da, Phi Diễn,  Phi Mai). Như vậy Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ và Hồ Xuân Hương là anh em cùng họ ông tổ Hồ Sĩ Anh ( nhà văn Trần Gia Phụng  tác phẩm Nhà Tây Sơn  trang 43. Nxb Non Nước Toronto 2005)
[3] Hồ Xuân Hương thơ và đời  Nxb Văn học sđd trang 221
[4]  Trận nầy quân Thanh thiệt hại nặng đề đốc Hứa Thế Hanh, tổng binh Trương Tiểu Long, Thượng Duy Thanh đều tử trận. Tôn Sĩ Nghị bỏ chạy quên nang theo ấn quân, sắc thư, cờ tiết…hơn 10.000 quân Thanh tử trận ( Việt Sử đại cương tập 2  trang 361, nhà văn Trần Gia Phụng  NxB Toronto 2006.