Theo yêu cầu của một số thân hữu và em, cháu trong gia tộc: Dịch ra
tiếng Việt từ tiếng Anh và phổ biến lên đây. Mong rằng nó
chuyên chỡ được những thực tính của dược thảo và tâm linh lực để giúp
những bệnh nhân sớm phục hồi mà không cần phải tốn thì giờ thăm bác sĩ
và tiền thuốc. Nhất là những bệnh như
thấp khớp, xương mộc gai và
xơ gan mà tây y không chửa trị
được một cách rốt ráo nhưng dược thảo trị được tận gốc rễ mà chính bản
thân người sưu tầm chứng nghiệm. Nên rất tâm đắc để giới thiệu đến thân
hữu gần xa và những ai có duyên kỳ ngộ trong
trang mạng nầy.
Tên
|
Hình
|
Tác Dụng và Trị Bệnh
|
Trái Táo (Apple)
|
| Trị bệnh ỉa chảy ( Diarrhea). Để cho trái táo héo lại và ăn luôn vỏ.
Ngăn chận táo bón (constipation)
Giúp sự linh hoạt ở các khớp xương
Bảo vệ tim. Gia tăng họat động phổi
“an apple a day keeps the doctor away”. Ăn mỗi ngày một trái táo thì không cần đến bác sĩ
|
Trái Mơ (Apricot)
|
| Chống ung thư
Hạ huyết áp
Tăng cường thị giác
Ngăn chận bệnh lãng trí ( alzheimer)
Chống lão hóa
|
Ạt Ti Sô (Artichokes)
|
| Giúp tiêu hóa (aids digestion)
Giãm mỡ
Bảo vệ tim
Bình hòa lượng đường trong máu
Chống lại bệnh về gan (liver diease)
|
Trái Bơ ( Avocado)
|
| Chống tiểu đường
(diabetes)
Giãm lượng mỡ ( cholesterol)
Bảo vệ gan
Bảo vệ tim
|
Trái Chuối ( Bannas)
|
| Bảo vệ tim
Ngưng ho
Chắc xương
Giãm huyết áp
Ngưng tiêu chảy |
Đậu (Beans)
|
| Chận táo bó
Giãm mỡ
Chống ung thư
Bình hòa đường
|
Củ Cải Tiá (Beet)
|
| Giãm huyết áp
Chống ung thư
Chắc xương
Bổ tim
Giãm cân
|
Hạt Chia (Chia seeds)
| | Bảo vệ tim
Chống ung thư
Giãm lượng đường trong máu
Trợ giúp tiêu hóa
Chống lão hóa da
Giãm cân
Giãm huyết áp ...vv.. |
Hạt lanh
- Flax seed
Flax (also known as common flax or linseed) (binomial name: Linum usitatissimum
|
| Giúp nhuận trường
Ngăn chận bệnh tiểu đường
Bảo vệ tim
Tăng cường hệ thống thần kinh
Giúp tăng cường hệ thống miễn nhiểm
|
Blueberry
|
| Chống ung thư
Bảo vệ tim
Bình hòa lượng đường trong máu
Tăng cường trí nhớ
Chống táo bón
|
Cải Bông (Brocoli)
|
| Chắc xương
Giữ vững thị giác
Chống ung thư
Bảo vệ tim
Giãm huyết áp
|
Cải Bắp (Cabbage)
|
| Chống ung thư
Chống táo bón
Giãm cân
Bảo vệ tim
Giúp bệnh trĩ (helps hemorrrhoids)
|
Dưa Đỏ (Cantaloupe)
|
| Giữ vũng thị giác
Giãm huyết áp
Giãm mỡ ( cholesterol)
Chống ung thư
Tăng cường hệ thống miễn nhiểm
|
Củ cải đỏ (Carrot)
|
| Giữ vũng thị giá
Bảo vệ tim
Chống táo bón
Chống ung thư
Giãm cân
|
Bông cải (Cauliflower)
|
| Chống ung thư tuyến tiền liệt (Prostate cancer)
Chống ung thư vú
Chắc xương
Làm tan vết bầm
Bảo vệ tim
|
Cherries
|
| Bảo vệ tim
Chống ung thư
Ngũ được (ends insomnia)
Chống lão hóa
Chống lãng trí
|
Hạt dẻ (chestnut)
|
| Gíup giãm cân
Bảo vệ tim
Giãm mỡ
Chống ung thư
Giãm huyết áp
|
Trái Ớt (Chili peppers)
Red Pepper
|
| Giúp nhuận trường
Làm dịu cơn đau cổ họng
Làm khô nước mũi
Chống ung thư
Tăng cường hệ thống miễn nhiễm
Trị ho
|
Fig (Quả sung)
|
| Giúp giãm cân
Chận tai biếng ( stroke)
Giãm mỡ
Chống ung thư
Giãm huyết áp
|
Củ Tỏi ( Garlic)
|
| Giãm mỡ
Giãm huyết áp
Chống ung thư
Diệt vi khuẩn ( kill bacteria)
Chống gây nốt sùi ( fights fungus)
|
Trái Bưởi (grapefruit)
|
| Bảo vệ tim
Giúp giãm cân
Giúp ngăn chận tai biếng
Chống ung thư tuyến tiền liệt
Giãm mỡ
|
Trái Nho (grapes)
|
| Giữ vững thị giác
Chế ngự được sạn thận
Chống ung thư
Hoạnh thông hệ thống tuần hoàn
Bảo vệ tim
|
Trà xanh (green tea)
|
| Chống ung thư
Bảo vệ tim
Ngăn chận tai biếng
Giãm cân
Diệt vi khuẩn
|
Mật Ong (honey)
|
| Giúp lành vết thương
Giúp nhuận trường
Chống lại đẹn ( ulcer)
Tăng cường năng lực
Chống vị ứng
|
Trái Chanh (lemon)
Trái Hạnh (lime)
|
| Chống ung thư
Bảo vệ tim
Giãm huyết áp
Làm da mịn màng
Ngưng bệnh scopat ( stop scurvy)
|
Trái Soài (mango)
|
| Chống ung thư
Tăng cường trí nhớ
Điều hòa tuyến giáp trạng (regulates thyroid)
Giúp nhuận trường
Ngăn chận bệnh lãng trí
|
Nấm (Mushroom)
|
| Giãm huyết áp
Giãm mỡ
Diệt vi khuẩn
Chống ung thư
Chắc xương
|
Yến Mạch (Oat)
|
| Giãm mỡ
Chống ung thư
Chận lượng đường trong máu
Chống táo bón
Làm da mịn màng
|
Dầu Olive (Olive oil)
|
| Bảo vệ tim
Giúp giãm cân
Chống ung thư
Chận lượng đường trong máu
Làm da mịn màng
|
Củ Hành (Onion)
|
| Giãm nguy cơ bệnh tim
Chống ung thư
Diệt vi khuẩn
Giãm mỡ
Chống gây nốt sùi
|
Củ Hành Đỏ (Red onion)
|
| Trị bệnh suyễn ( asthma)
Lát mõng ra rồi ăn sống hay nấu chín. Nếu ăn sống được thì tốt hơn, vì dược tính không bị mất.
|
Trái Cam (Orange)
|
| Tăng cường hệ thống miễn nhiễm
Chống ưng thư
Bảo vệ tim
Hoạnh thông hệ thống hô hấpm |
Trái Đào (Peach)
|
| Chống táo bón
Chống ung thư
Ngăn chận tai biếng
Trợ giúp tiêu hóa
Giúp bệnh trĩ bớt đau
|
Hạt Lạc (Peanut)
|
| Chống lại bệnh về ti
Giúp giãm cân
Chống lại bệnh ung thư tuyến tiền liệt
Giãm mỡ
Làm cho bệnh đau ruột già trầm trọng hơn
(Aggravates diverticulitis)
|
Trái Thơm (Pineapple)
|
| Làm chắc xương
Trị cãm
Trợ giúp tiêu hóa
Trị dứt mụn cóc
Ngưng ỉa chảy
|
Trái mận khô (Prunes)
|
| Chống khô da
Chống táo bón
Giúp tăng cường trí nhớ
Giãm mỡ
Chống lại bệnh về tim
|
Gạo (Rice)
|
| Bảo vệ tim
Giãm lượng đường trong máu
Loại trừ được sạn thận (kidney stone)
Chống ung thư
Ngăn ngừa tai biếng
|
Trái Dâu ( Strawberry)
|
| Chống ung thư
Bảo vệ tim
Giúp trí nhớ
Giãm stress
|
Củ Khoai (Sweetpotatoes)
|
| Giữ vũng thị giác
Chắc xương
Chống ung thư
Tránh bệnh về tim
|
Trái Cà Chua (tomatoes)
|
| Bảo vệ tuyến tiền liệt
Chống ung thư
Giãm mỡ
Bảo vệ tim
|
Trái Óc Chó (Walnut)
|
| Giãm mỡ
Chống ung thư
Tăng trí nhớ
Bảo vệ tim
|
Trái Dưa Hấu (watermelon)
|
| Bảo vệ tuyến tiền liệt
Giúp giãm cân
Giãm mỡ
Giãm huyết áp
Ngăn chận tai biếng
|
Mầm Lúa Mì (Wheat germ)
Cám Lúa mì ( Wheat bran)
|
| Chống ung thư ruột
Chống táo bón
Giãm mỡ
Ngăn chận tai biếng
Cải thiện hệ thống tiêu hóat
|
Nước (water)
|
| Giúp giãm cân
Chống ung thư
Giúp trí nhớ
Làm da mịn màng
Một cơ thể của một người lớn cần ít nhất là hai lít nước trong một ngàyn
|
Yogurt
|
| Phòng chống lỡ da (đẹn) Ulcer
Làm chắc xương
Giãm mỡ
Giúp tăng cường hệ thống miễn nhiểm
Trợ giúp hệ thống tiêu hóa
|
|
|
|
Cây Mướp Gai
Mướp Gai chát hơi hàn giải nhiệt,
Bịnh thủng sưng ban trái trừ xong.
Độc thuỷ tà phạm thận tả thông,
Uất tiểu tiện bại tê cần dụng.
Cây Diệp Hạ Châu
|
| Trị Bệnh
xơ gan và viêm gan B
Cây mướp gai còn được gọi là mướp rừng. còn có công dụng trị bệnh sơ gan và viêm gan B .
Cây mướp gai và cây diệp hạ châu đều trị bệnh sơ gan và viêm gan B rất hiệu quả.
Để trị bệnh xơ gan và viêm gan B thì nấu như thuốc nam, đỗ ba chén nước vào cái siêu và
cho lá ,ngọn và rễ (sau khi phơi khô) vào vừa
ngang mặt nước, nấu còn lại 8/10 chén thì được. Khi nấu lửa nhỏ, khoản
chừng 1 giờ rưỡi cho tới hai giờ thì mới còn lại 8 phân. Nếu không
có siêu thì dùng máy nấu nước bằng điện với độ nấu chậm (slow cook).
Sau đó nấu nước hai làm nước uống thay cho nước lạnh.
Uống 30 ngày , mỗi ngày một thang , kết quả thử máu sẽ cho thấy sự hiệu quả.
Xem chi tiết về thực vật học phần dưới.
|
Cây Xăng máu
Tên khoa học: Horsfielddia irya Warbg.
|
| Trị bệnh xương mộc gai ở cổ, chân, xương sống ...
Chặt rễ cây hay nhánh
cây ra mõng chừng 1 hay 2 ly rồi phơi khô và sau đó đem sao trong nồi
đất rồi hạ thổ . Cho ba (3) chén nước vào cái siêu rồi cho những lát
mỏng của cây xăng máu vào siêu khi thấy vừa ngang
mặt nước là đủ. Nấu lửa nhỏ , khoản 1 tiếng rưỡi đồng hồ đến khi còn
lại 8 phần mười (8/10) chén thì được. Sau khi phơi khô thì có màu đỏ
như máu. Uống vào thì có vị chua và chát thì đúng là xăng máu. Nấu nước
nhì làm nước uống thì kết quả nhanh hơn.
Uống 30 thang, mỗi ngày một thang sẽ không còn bị tê hay nhứt nữa. Kết
quả chụp quang tuyến hay scan sẽ cho thấy sư hiệu nghiệm của nó.
Xem chi tiết phần dưới
|
Lá Rau Má
Swamp Pennywort.
| | Trị Bệnh thấp khớp
Tháng
12 năm 2003 vừa qua, Trong chương trình phóng sự hàng ngày The Current
Affair của đài truyền hình số 9 tại Sydney có tường thuật một
số người Úc đã tự chữa bịnh thấp khớp bằng loại thảo dược dân gian cổ
truyền (folk medicine) . Mỗi ngày chỉ cần nhai hai lá rau má tươi và
nuốt sống, một thời gian sau, bịnh thấp khớp có thể giảm bớt hoặc bình
phục. Các bài tường thuật này trùng hợp với tài
liệu trong sách Arthrtis and Paradoxical Pennywort (Bịnh thấp khớp và
lá rau má) của tác giả Russ Maslen, nên chúng tôi xin trích dịch một
đoạn trong quyển sách ấy để cống hiến quý độc giả tham khảo.( xem tiếp phần dưới)
|
Hạt Hạnh
Almond
|
| Giãm mở (cholesterol)
Chưá nhiều vitamin E chất calcium và magnesium giúp chống lại bệnh ung thư và tim mạch.
Giúp tăng sức mạnh cuả xương.
Xem tiếp chi tiết phấn dưới
(trang 2)
|
Củ Nghệ
Turmeric
|
| 1. Nghệ giúp giảm cân, lưu thông và lọc máu.
2. Nghệ giúp cơ thể chống lại các vi khuẩn sống ký sinh trong ruột, đặc biệt tốt cho hệ tiêu hoá.
3. Mới đây người ta đã chứng minh được rằng có thể sử dụng nghệ để chống
ung thư và nghệ có khả năng kháng viêm, giảm nguy cơ nhiễm trùng.
4. Có thể dùng nghệ để khử trùng và mau lành vết thương.
Xem chi tiết phần dưới ( trang 2)
|
Nguồn:
http://tinhdocusiphathoi.vn/songtu.php?act=detail&iNewsID=17
Hạt Chia
Nutritional information
Thành Phần Dinh Dưỡng
| Average per 10g | Average per 100g |
Energy | 192Kj | 1920Kj |
Protein | 2.0g | 20.4g |
Fat, total | 3.4g | 30.4g |
Saturated | 0.4g | 4.0g |
Monounsaturated | 0.3g | 3.3g |
Omega 5 | 3.4g | 34.0g |
Omega 7 | 3.5g | 35.0g |
Omega 9 | 201.1mg | 2011mg |
Polyunsaturated | 2.6g | 26.4g |
Omega 3 | 1.9g | 19.3g |
Omega 6 | 0.7g | 7.1g |
Carbohydrates | 3.7g | 37.0g |
Sugars | 0.0g | 0.0g |
Fibre | 3.6g | 36.0g |
Calcium | 50mg | 500mg |
Potassium | 50mg | 500mg |
Magnesium | 29mg | 290mg |
Iron | 0,6mg | 6.4mg |
Phosphorous | 60mg | 600mg |
(Pháp: Graines de lin; Anh: Flaxseeds, linseeds; La-tinh: Linum usitatissimum)
Dược sĩ Lê-văn-Nhân
Từ điển Cây
thuốc Việt-nam của Võ-văn-Chi hay sách Cây thuốc và động vật làm thuốc ở
Việt-nam của nhà xuất bản khoa học và kỹ thuật gọi cây này là cây lanh
hay lanh mán, đọc theo phiên âm tiếng Pháp. Cây
này di thực vào trồng ở Sa-pa Việt-nam để làm sợi, nhưng nay không còn
nữa. Tự điển tiếng Anh bảo cây “flax” là một cây có hoa màu xanh, trồng
để lấy sợi dệt vải lanh. Tên La-tinh có nghĩa là cây hữu dụng nhất. Có
thể vào trang web
www.flaxcouncil.ca xem hình hoa flax, có bán hột lanh tại Cananda và trả lời những câu hỏi về cây này.
Chúng tôi trình bày cây này không phải vì tính công nghiệp mà do trào
lưu dùng omega-3. Hạt lanh hay flaxseeds là nguồn cung cấp omega-3 thực
vật.
Hạt lanh hơi lớn hơn hạt mè và có vỏ cứng trơn và sáng, màu sắc từ vàng
sẫm đến nâu đỏ tùy thuộc cây lanh đó giống vàng hay nâu. Vị hạt lanh ấm.
Người ta thường ăn hạt đã xay để tăng cường hấp thụ chất dinh dưỡng.
Cây lanh có vị trí lịch sử lâu đời ở Âu châu, vì vua Charlemagne nước
Pháp khi thấy cây này có giá trị trong việc nấu nướng, y học và sợi để
dệt vải, liền ra đạo luật yêu cầu trồng và ăn hạt này. Sau Charlemagne,
hạt lanh được tán thưởng khắp cả Âu châu. Đến
thế kỷ 17, những người di dân mang hạt lanh qua trồng tại Canada, là
nước hiện nay sản xuất hạt này nhiều nhất tại Mỹ châu.
Chúng tôi không thấy hạt lanh bán ở các hiệu thuốc tại Hoa-kỳ, nhưng bác
sĩ ở Montreal Canada còn cho toa “Graines de Lin” cho bệnh nhân cao
tuổi, có lẽ để chữa bệnh táo bón, vì làm tăng thể tích của phân
(bulk-forming). Mua hạt chưa xay thì giữ lâu hơn, nhưng
về phải xay lấy. Còn mua hạt đã xay thành bột, thì phải đóng gói trong
bao chân không hàn kín, vì để lâu dầu sẽ bị oxýt hóa và không còn giá
trị dinh dưỡng nữa. Hạt xay nên để trong tủ lanh hay trong ngăn đá để
khỏi bị hỏng.
Dầu lanh phải mua trong chai mờ đục và giữ trong tủ lạnh. Dầu lanh phải
có vị ngọt của hạt trái cây. Không được dùng dầu lanh để nấu ăn, mà chỉ
thêm vào thức ăn sau khi đã nấu chín.
Giá trị dinh dưỡng của hạt lanh:
2 muỗng canh = 19.38 gam = 95.33 calo
Chất dinh dưỡng
|
Trọng lượng
|
omega-3
|
3.51 g
|
Mangan
|
0.64 mg
|
chất xơ
|
5.41 g
|
Ma-giê
|
70.14 mg
|
Folate
|
53.86 mcg
|
Đồng
|
0.20 mg
|
Phosphorus
|
94.49 mg
|
Vitamin B6
|
0.18 mg
|
Lợi ích cho sức khỏe:
Hạt lanh giàu Alpha-Linoleic Acid viết tắt là ALA, một chất béo
omega-3, tiền chất của omega-3 trong dầu cá gọi là EicosaPentaenoic
Acid (EPA). Muốn chuyển từ ALA sang EPA, cần enzym chuyển hóa
delta-6-destaurase, mà ở một số cá nhân không hiện hữu
hay không hoạt động bằng người khác. Ngoài ra, chức năng của enzym này
bị ức chế ở người bệnh tiểu đường hay ăn chất béo bảo hòa hay uống rượu.
Vì những lý do này, phải dùng liều cao dầu lanh hay hạt lanh mới có
cùng lợi ích như khi dùng omega-3 ở dầu cá.
Một nghiên cứu đăng trong Journal of Nutrition tìm thấy viên nang dầu
hạt lanh cung cấp 3 gam ALA mỗi ngày trong 12 tuần tương đương với 3
muổng canh (45 ml) dầu lanh sẽ tăng mức EPA 60%. Tuy nhiên, lượng dầu
này sẽ cung cấp đến ¼ calo cần thiết cho một ngày.
Lợi ích chống viêm:
Chất béo omega-3 được cơ thể dùng để tạo ra 2 nhóm
prostaglandin 1 và 3, là những phân tử giống hormone chống viêm, trái
với nhóm prostaglandin 2 là những phân tử gây viêm tạo ra bởi những chất
béo khác, nhất là acid béo omega-6, có nhiều trong
mỡ động vật, margarine, và nhiều loại dầu thực vật như dầu bắp, dầu rum
(safflower), dầu hướng dương, dầu cọ và dầu phụng. Chất béo omega-3 có
thể giúp giảm viêm là yếu tố chính trong những bệnh như hen suyển, thoái
hóa khớp, viêm khớp do thấp, nhức đầu migraine
và xốp xương.
Hạt lanh giàu omega-3 bảo vệ xương:
ALA, acid béo omega-3 trong hạt lanh và hạt óc chó
(walnut), giúp xương khỏe mạnh bằng cách giúp ngăn ngừa tế bào xương
thay đổi thái quá. Khi dùng thức ăn giàu omega 3, sẽ làm giảm tỷ số
omega-6/omega-3 trong tiết thực.
Những nghiên cứu khác cho thấy thực phẩm giàu omega-3 ở cá (DHA và EPA)
cũng làm giảm tỷ số omega-6/omega-3, giảm mất xương. Các nhà nghiên cứu
nghĩ rằng có thể omega-6 chuyển thành prostaglandin gây viêm, trong khi
omega-3 chuyển hóa thành prostaglandin chống
viêm.
Trong nghiên cứu này, 23 người tham dự ăn 1 trong 3 chế độ tiết thực
trong 6 tuần với 3 tuần “washout” (rửa sạch chất nghiên cứu trước khi
dùng chất khác) giữa các chế độ tiết thực. Cả 3 chế độ cung cấp lượng
chất béo như nhau, nhưng tỷ số omega-6/omega-3 khác
nhau nhiều.
Chế độ ăn số 1
cung cấp 34% thức béo toàn phần gồm omega-6 và omega-3 với số lượng
giống như bữa ăn bình thường của người Mỹ: 9% chất
béo nhiều dấu nối đôi (PUFA: polyunsaturated fats) trong đó 7.7% là
omega-6 và chỉ 0.8% là omega-3, đưa đến tỷ số omega-6/omega-3 = 9.6/1
giúp gây viêm.
Chế độ ăn số 2
giàu omega-6, cung cấp 37% chất béo toàn phần chứa 16% PUFA với tỷ số
omega-6/omega-3 = 12/3.6 = 3.3/1, vẫn còn có tính gây viêm.
Chế độ ăn thứ 3 cung cấp 38% thức béo toàn phần giàu omega-3, chứa 17% PUFA trong đó 10.5% là omega-6 và 6.5% là omega-3, tỷ số omega-6/omega-3
= 1.6/1 có tính chống viêm.
Sau mỗi chế độ ăn, người la đo mức N-telopeptides,chất đánh dấu xương
thoái hóa, và thấy thấp nhất ở chế độ ăn số 3 là chế độ ăn giàu omega-3.
Mức N-telopeptides trong máu những người ở mỗi chế ăn liên quan đến mức
độ chất đánh dấu viêm TNF-α (Tumor necrosis
factor-alpha) tạm dịch là yếu tố ngoại tử bườu alpha. Chế độ ăn 1 và 2
giàu omega-6 có mức TNF-α cao hơn chế độ ăn số 3 giàu omega-3 trong hạt
lanh.
Bảo vệ chống bệnh tim, ung thư và tiểu đường:
Chất
béo omega-3 dùng để sản xuất những chất giảm thành lập huyết khối, nên
giảm nguy cơ bệnh nhồi máu cơ tim và đột quỵ ở bệnh nhân xơ vữa động
mạch hay bệnh tim cùng với tiểu đường.
Chất béo omega-3 cũng cần thiết để sinh ra màng tế bào mềm dẻo. Màng tế
bào là người giữ cổng, cho phép chỉ những chất dinh dưỡng cần thiết và
giúp loại thải các chất bã. Màng tế bào tối cần thiết cho người bệnh
tiểu đường vì màng tế bào mềm dẻo tốt hơn để
đáp ứng với insulin và hấp thu glucose hơn là màng cứng do chất béo bảo
hòa hay chất béo trans hydro hóa. Trong ruột già, omega-3 giúp bảo vệ
tế bào ruột khỏi bị ung thư do các độc tố và các gốc tự do gây ra, giảm
nguy cơ ung thư ruột già.
Hạt lanh cũng hạ cholesterol giống statin:
Trong một nghiên cứu gồm 40 người cao cholesterol
(>240 mg/dl), mỗi ngày ăn 20g hạt lanh xay được so sánh với người
dùng statin. Sau 60 ngày, người ta thấy giảm đáng kể cholesterol toàn
phần, LDL hay cholesterol xấu, triglycerid và tỷ số cholesterol
toàn phần/HDL ở cả 2 nhóm.
Chỉ số khối lượng cơ thể BMI, cholesterol toàn phần, HDL, LDL,
triglycerid và tỷ số cholesterol toàn phần/HDL được đo khi bắt đầu và
sau 60 ngày.
Những người ăn hạt lanh, cholesterol toàn phần giảm 17.2%, LDL giảm
3.9%, triglycerid giảm 36.3%, tỷ số cholesterol toàn phần/HDL giảm 33.5%
so với mức căn bản.
Dầu lanh giảm huyết áp ở đàn ông cao cholesterol:
Các nhà nghiên cứu Hy-lạp tìm tác dụng trên huyết áp tâm
thu và tâm trương trong một nghiên cứu 3 tháng ở 59 người đàn ông trung
niên dùng hoặc dầu lanh hay dầu rum (safflower) trong món ăn thường
ngày.
Dầu lanh giàu chất béo omega-3, alpha-linoleic acid (ALA), mà cơ thể
chuyển hóa thành acid béo bổ ích omega-3 chuỗi dài, DHA và EPA, trong
khi dầu rum (safflower) là nguồn cung cấp omega-6, acid linoleic (LA).
Đàn ông dùng dầu lanh cung cấp 8 gam ALA mỗi ngày
hay dầu rum cung cấp 11 g LA mỗi ngày.
Ở điều kiện 12 tuần nghiên cứu, huyết áp tâm thu và tâm trương giảm đáng kể ở người dùng dầu lanh giàu omega-3.
Một giải thích khả dĩ cho kết quả này là tính chống viêm của chất béo
omega-3. Cả hai omega-6 và omega-3 đều là acid béo thiết yếu cho cơ thể
(cơ thể không tự tổng hợp được): chúng ta cần cả 2 loại chất béo này để
giữ sức khỏe tốt và phải lấy từ thức ăn. Tuy
nhiên, chất béo omega-6 có khuynh hướng gây viêm quá đáng khi không cân
bằng với đủ lượng chất béo omega-3 trong thức ăn. Phần lớn những nhà
dinh dưỡng tin rằng tỷ số giúp cho sức khỏe omega-6/omega-3 không quá
4/1, và nhiều người tin rằng tỷ số tối hảo là
2/1. Tuy nhiên, thức ăn của người Mỹ cung cấp omega-6 gấp 10 lần
omega-3!
Omega-3 có thể giảm huyết áp:
Omega-3 trong đó có ALA từ hạt lanh, có thể giúp hạ
huyết áp. Đó là kết luận của một nghiên cứu quan sát dữ liệu ở 4680
người Trung quốc, Nhật-bản, vương quốc Anh và Hoa-kỳ. Các nhà nghiên cứu
nhìn vào huyết áp và omega-3 trong thức ăn. Sau
khi bù trừ một số yếu tố ảnh hưởng đến huyết áp (như tuổi tác, trọng
lượng, thể dục, muối ăn vào, phái tính và lượng rượu uống), các nhà
nghiên cứu kết luận chế độ ăn giàu omega-3 liên quan với:
giảm huyết áp trung bình
0.6 mm Hg tâm thu cũng như tâm trương
giảm huyết áp tâm thu và tâm trương
1 mm Hg trong số 2238 người không có chế độ ăn đặc biệt hay dùng thuốc
hỗ trợ dinh dưỡng hay thuốc hạ huyết áp hay bệnh tim hay tiểu đường;
giảm huyết áp tâm thu và tâm trương 0.9 mm Hg trong số 2038 người không cao huyết.
Thực phẩm chứa omega-3 có nhiều tác dụng hơn ở người không uống thuốc
hay chưa phát sinh bệnh cao huyết áp, theo lời bác sĩ Hirotsugu Ueshima,
giáo sư và chủ nhiệm bộ môn khoa học y tế đại học y khoa Shiga
Nhật-bản.
Những nghiên cứu trước đây cho thấy khi giảm huyết áp được 2 mm hg có
thể giảm tử vong do đột quỵ khoảng 6% và do bệnh tim động mạch vành
khoảng 4%.
Bác sĩ Ueshima bảo, với huyết áp, mỗi mm Hg đều quan trọng. Tác dụng của
mỗi chất dinh dưỡng dầu nhỏ nhưng không phụ thuộc chất khác, khi hợp
lại sẽ có tác dụng rõ rệt trên huyết áp. Nếu có thể giảm huyết áp vài mm
do ăn ít muối hơn, giảm vài kilô, tránh uống
nhiều rượu, ăn nhiều rau, hạt chưa xay và trái cây (do thành phần chất
xơ, khoáng chất, protein thực vật và những chất dinh dưỡng khác) và dùng
thêm omega-3, chúng ta sẽ sẽ tạo ra khác biệt đáng kể.
(Theo Hypertension 06/07).
Cung cấp chất xơ có lợi:
Hạt và bột hạt lanh là nguồn cung cấp chất xơ có thể làm
giảm cholesterol ở người bệnh xơ vữa động mạch và bệnh tim tiểu đường,
giảm tế bào ruột non phơi nhiễm với hóa chất gây ung thư, giúp giảm táo
bón và ổn định mức đường trong máu ở người
bệnh tiểu đường. Hạt lanh cũng là nguồn cung cấp ma-giê, giúp giảm mức
trầm trọng bệnh suyễn bằng cách giúp cho khí đạo mở và thư dãn, hạ huyết
áp và giảm nguy cơ nhồi máu cơ tim và đột quỵ ở người xơ vữa động mạch
và bệnh tim tiểu đường, ngăn ngừa co thắt
mạch máu đưa đến cơn nhức đầu migrên, và thường khuyến khích thư dãn và
tái tạo giấc ngủ bình thường.
Một nghiên cứu đăng trong Archives of Internal Medicine xác nhận ăn thức
ăn giàu chất xơ như hạt lanh, giúp ngừa bệnh tim. Hầu hết 10 000 người
lớn Mỹ tham dự vào nghiên cứu này và được theo dõi trong 19 năm. Những
người ăn nhiều chất xơ, 21 gam mỗi ngày, giảm
bệnh tim động mạch vành 12% và bệnh tim mạch 11% so với những người ăn
ít hơn 5 gam chất xơ mỗi ngày. Những người ăn nhiều chất xơ hòa tan
trong nước có kết quả tốt hơn, giảm 15% nguy cơ bệnh tim động mạch vành
và 10% nguy cơ bệnh tim mạch.
Hạt lanh ngăn tiến triển ung thư tuyến tiền liệt đàn ông
Một nghiên cứu được tài trợ bởi viện ung thư quốc gia và
viện y tế quốc gia Hoa-kỳ, hạt lanh được cung cấp bởi công ty Enreco
Inc.. Liều mỗi ngày là 30 gam khoảng 3 muổng canh đầy, và hạt lanh được
xay và trộn với thức ăn và uống. Kết quả báo
cáo trong đại hội ung thư lâm sàng Hoa-kỳ lần thứ 43 đầu tháng 6/07.
Hạt lanh là nguồn giàu chất lignan (“lich” là gỗ) có nhiều hoạt tính có
thể hữu ích trong ung thư. Lignan ảnh hưởng chuyển hóa androgen, chống
nguyên phân (mitosis) và chống oxýt hóa
Các nhà nghiên cứu chia người tham dự thành 4 nhóm chế độ ăn: giả dược
kiểm chứng, hạt lanh, chế độ ăn ít chất béo, và kết hợp hạt lanh với ít
chất béo. Nghiên cứu thực hiện ở 161 bệnh nhân đã lên lịch mổ cắt tuyến
tiền liệt. Người tham dự có thời gian trung
bình 30 ngày rồi giải phẫu. Mô cắt bỏ được gởi cho 2 bác sĩ chuyên khoa
bệnh lý để phân tích.
Nghiên cứu đầu cho thấy giảm đáng kể tốc độ tăng trưởng u bướu ở 2 nhóm
dùng hạt lanh (P=0.0013) và ở nhóm dùng ít chất béo độ giảm chưa có ý
nghĩa thống kê)
Tốc độ tăng trưởng trung bình của u bướu tuyến tiền liệt:
Kiểm chứng
|
Hạt lanh
|
Giảm chất béo
|
hạt lanh + giảm chất béo
|
3.23
|
1.66
|
2.56
|
1.55
|
Kết quả gợi ý tế
bào ung thư mọc với tốc độ chậm hơn đáng kể (khoảng 30-40%) ở 2 nhóm
dùng hạt lanh so với nhóm dùng giả dược hay chỉ dùng thức ăn ít chất
béo. Điều này cho thấy lignan giảm tốc độ tăng trưởng
tế bào ung thư tuyến tiền liệt.
Nghiên cứu thứ hai bao gồm tế bào ung thư tuyến tiền liệt tự hủy
(apoptosis) và quan sát mô lành tính, cho thấy không có khác biệt đáng
kể giữa 2 nhóm, nhưng bệnh nhân dùng chế độ ít chất béo cho thấy giảm
cholesterol đáng kể, điều này không ngạc nhiên.
Bác sĩ cầm đầu cuộc nghiên cứu cho biết điều ngạc nhiên là không thấy
giảm testosterone nhưng dự kiến.Có thể omega-3 đã tác dụng lên độ dính
của tế bào ung thư với nhau, và lignan cũng có thể có tính chống sinh
mạch làm mất nguồn nuôi dưỡng u bướu. Tuy nhiên
những giả thuyết về cơ chế này cần phải có thêm nghiên cứu xác nhận.
Bảo vệ đặc biệt cho phụ nữ:
Hạt lanh được nghiên cứu trễ hơn một chút về lợi ích bảo
vệ sức khỏe cho phụ nữ. Hạt lanh đặc biệt giàu chất lignan, hợp chất
đặc biệt cũng tìm thấy trong các hạt khác và rau được vi khuẩn ruột
chuyển thành 2 chất giống hormone gọi là enterolactone
và enterodione. Hai chất này chứng tỏ một số tác dụng bảo vệ chống ung
thư vú và được tin là một lý do giúp người ăn chay ít nguy cơ bị ung thư
vú hơn. Nghiên cứu cho thấy phụ nữ bị ung thư vú và phụ nữ ăn thit bài
tiết trong nước tiểu ít lương lignan hơn
phụ nữ ăn chay không bị ung thư vú. Nghiên cứu ở thú vật để đánh giá
lợi ích của lignan,cung cấp thức ăn giàu chất béo bằng bột hạt lanh giảm
những chất đánh dấu sớm ung thư vú ở thú vật phòng thí nghiệm hơn 55%.
Trong một nghiên cứu đăng trên American Journal of Clinical Nutrition,
khi những phụ nữ sau tuổi mãn kinh ăn mỗi ngày 1 bánh “muffin” chứa
hoặc 25 g protein đậu nành, 25 g bột hạt lanh hoặc giả dược trong 16
tuần, chuyển hóa estrogen ở người ăn hạt
lanh, chứ không phải đậu nành hay chất vờ, được biến đổi bằng nhiều lối
bảo vệ quan trọng:
. -hydroxyestrone, một chất chuyển hóa của estrogen ít hoạt tính sinh
học hơn được cho là bảo vệ chống ung thư vú, tăng cao đáng kể;
* tỷ số 2-hydroxyestrone (chuyển hóa estrogen bảo vệ) trên
16-alpha-hydroxyestrone (chuyển hóa estrogen nghi gây ung thư) tăng cao;
* mức thành phần estrogen trong máu (estradiol, estrone, và estrone
sulfate) không thay đổi đáng kể là điều quan trọng, vì estradiol tham dự
vào tiến trình bảo vệ khối lượng xương.
Như vậy có nghĩa là mỗi ngày ăn 1 ounce (khoảng 30 g) hạt lanh xay sẽ
tác động lên estrogen phụ nữ sau tuổi mãn kinh giúp chống ung thư vú
nhưng không can thiệp vào vai trò của estrogen bảo vệ khối lượng xương.
Lignan cũng giúp rụng trứng bình thường và kéo dài pha progesterone
trong chu kỳ kinh nguyệt. Phụ nữ muốn có thai, nếu trứng rụng đều đặn sẽ
có nhiều cơ may thụ thai hơn. Phụ nữ từ 35 đến 55 tuổi, có những triệu
chứng lúc hành kinh như kinh nguyệt không đều,
có nang trong vú, nhức đầu, khó ngủ, ứ nước, lo lắng, bức rức, thay đổi
tâm tính, lên cân, không ham thích chuyện chăn gối, trí não mơ hồ, u xơ
và kinh ra nhiều, nguyên nhân khả dĩ là estrogen quá mạnh. Khoảng 10
năm trước khi hết kinh, mức estrogen giao động
trong khi mức progesterone xuống đều đặn. Hạt lanh, có giúp trứng rụng
và kéo dài pha progesterone, giúp tái tạo cân bằng nội tiết tố. Nghiên
cứu sơ khởi cũng gợi ý hạt lanh có thể có tính bảo vệ phụ nữ sau tuổi
mãn kinh khỏi bị bệnh tim mạch. Trong một nghiên
cứu mới đây mù đôi và ngẫu nhiên, hạt lanh giảm mức cholesterol toàn
phần ở phụ nữ sau tuổi mãn kinh khoảng 6% mà không cần dùng thuốc thay
thế nội tiết tố.
Cuối cùng, chất xơ giàu lignan cũng cho thấy làm giảm đề kháng insulin,
do đó, giảm sinh khả dụng estrogen, làm giảm nguy cơ ung thư vú. Vì đề
kháng insulin là dấu hiệu cảnh báo bệnh tiểu đường tip 2, hạt lanh có
thể bảo vệ chống bệnh tiểu đường.
Chống khô mắt:
Hội chứng khô mắt thường xảy ra ở người cao tuổi. Nhỏ nước mắt giả chỉ giải quyết tạm thời. Một nghiên cứu trên
American Journal of Clinical Nutrition gồm 40 ngàn phụ nữ có nghề chuyên môn tuổi từ 45 đến 84 tham dự vào nghiên cứu sức khỏe phụ nữ.
Các nhà nghiên cứu ở bệnh viện Brigham và phụ nữ muốn biết các chất chứa
omega-3 (hạt lanh) và omega-6 (thịt đỏ, rượu rum, dầu đậu nành và dầu
bắp) có giữ vai trò gì không. Phụ nữ dùng nhiều omega-3 trong thức ăn có
nguy cơ khô mắt thấp hơn 17% so với người
dùng ít nhất. Trái lại, thức ăn giàu omega-6 nhưng thấp omega-3 tăng
đáng kể hội chứng khô mắt. Phụ nữ dùng chế độ ăn với tỷ số cao
omega-6/omega-3 có nguy cơ khô mắt cao gấp 2.5 lần.
Nhắc lại công thức acid béo omega-3:
EPA (EicosaPentaenoic Acid) là acid béo chuỗi thẳng có
20 carbon và 5 dấu nối đôi cis. Dấu nối cuối cách carbon omega hay
carbon đuôi ở vị trí 3.
DHA (Docahexaenoic Acid) là acid béo chuỗi thẳng gồm 22
carbon và 6 dấu nối đôi cis, dấu nối đôi cuối cách carbon omega hay
carbon cuối ở vị trí 3.
Hai acid trên có nhiều trong mỡ cá vùng biển lạnh như các salmon, tuna, macquerel.
ALA (alpha-linoleic Acid) là tiền chất của EPA và DHA. Không phải ai cũng đủ khả năng biến ALA thành EPA và DHA.
Kết luận:
Hạt lanh hay flaxseeds là một nguồn thức ăn tốt cho sức khỏe.
Việt-nam có lẽ khi di thực về chỉ nghĩ đến ích lợi công nghiệp, nên
không trồng nữa. Nhưng bộ y tế và các công ty dược liệu Việt-nam nên
nghiên cứu lại để có kế hoạch để ký hợp đồng với
nông dân trồng lại cây này.
Tài liệu tham khảo:
1/ Allman MA et al. supplementation with flaxseed oil versus
sunflowerseed oil in healthy young men consuming a low fat diet:effects
on platelet composition and function. Eur J Clin Nutrition 1995 mars:
49(3):169-78 PMID: 18190
2/ Bazzano LA et al.Dietary fiber intake and reduced risk of coraonary
heart diseaes in US men and women.Arch Intern Med 2003 Sep 8.
3/ Brooks JD et al. supplementation with flaxseed alters estrogen
metabolism in postmenopausal women to a greater extent than does
supplementation with an equal amount of soy.Am J Clin Nutr2004 Feb.
4/ Cleland LG,James MJ. rheumatoid arthritis and the balance of dietary
N-6 and N-3 essential fatty acids.Br J Rheumatol 1997 May.
5/ Griel AE et al. An increase in dietary n-3 fatty acids decrease a marker of bone resortion in humans.Nutr J 2007 Jan.
6/ Harper CR et al. Flaxseed oil increases plasma concentrations of
cardioprotective (n-3) fatty acids in humans.J Nutr 2006 Jan.
7/ Kinniry P et al. Dietary flaxseed supplementation ameliorates
inflammation and oxidative tissue damage in experimental models of acute
lung injury in mice.J Nutr 2006 June.
8/ Lucas EA et al.Flaxseed improves lipid profile without altering
biomarkers of bone metabolism in post menopausal women.J Clin endocrinol
Metab 2002 apr.
9/ Miljanovic B et al. Relation between dietary n-3 and n-6 fatty acids
and clinically diagnosed dry eye syndrome in women.Am J Clin Nutr 2005
Oct.
Ds Lê Văn Nhân
Nguồn:
http://www.yduocngaynay.com/8-8TK_LeVNhan_Lin_Flax.htm
Nguồn:
http://www.nutrition-and-you.com/vegetable-nutrition.html
Cây Xăng Máu: Một trong những cây có giá trị nhưng bị bỏ quên
|
|
Từ lâu con người đã biết tận dụng ưu điểm của thiên nhiên bằng cách
trồng Xăng máu và kết hợp một số loài cây khác dọc theo bờ tiếp xúc với
dòng nước nhằm bảo vệ bờ đê vì bộ rể mọc dọc theo bờ sông rạch tạo thành
tấm chắn bảo vệ bờ đê, chống lại sự xoáy mòn
của dòng chảy hoặc sự va đập của các cơn sóng do tàu, thuyền hoặc gió
thổi tạo ra |
|
Tên khoa học: Horsfielddia irya Warbg.
Họ:
Myristicaeae
Đại
mộc nhỏ, cao khoảng 7 – 15 m, nhánh mọc ngang. Lá dày, dài đến 30cm,
không lông, mặt dưới có gân nổi và có màu rỉ sét. Hoa chùm tụ tán,
có lông màu
rỉ sét, hoa nhỏ, cành màu vàng nhị màu nâu. Ra hoa từ tháng 5 – 6, chín
vào tháng 7 – 8, trái màu xanh ,khi chín chuyển qua màu đỏ.
Thân thẳng, tỉa cành tự nhiên. Lúc nhỏ vỏ màu xám trắng, trơn.
Khi lớn vỏ màu xám sậm và nứt dọc nhưng không sâu. Mọc dọc theo sông
rạch ở Bình Dương, TP Hồ Chí Minh… Cây ưa ẩm, chịu đựng được nước ngập
của thủy triều. ( theo GS-TS Phạm Hoàng Hộ). Tái
sinh chồi mạnh.
Công dụng:
-
Lá non có vị chát, hơi chua dùng làm rau sống cùng với các loại rau tự nhiên khác trong món thịt heo cuốn bánh canh Trảng Bàng.
-
Gỗ:
Khi mới khai thác, nhựa tươm ra giống như máu. Do đó người ta gọi là
Xăng Máu. Phơi khô khoảng 10 đến 15 ngày, gỗ xẻ ra có màu hồng nhạt
nhưng rất dễ bị mối mọt. Với công nghệ chế biến
hiện nay, người ta đã ngâm tẩm tạo ra các sản phẩm có lợi hơn như guốc,
bao bỉ, ván lạng dùng làm ván ruột của ván ép dùng trong xây dựng.
-
Chống sạc lở ven sông rạch:
Từ
lâu con người đã biết tận dụng ưu điểm của thiên nhiên bằng cách trồng
Xăng máu và kết hợp một số loài cây khác dọc theo bờ tiếp xúc với
dòng nước nhằm bảo vệ bờ đê vì bộ rể mọc dọc theo bờ sông rạch tạo
thành tấm chắn bảo vệ bờ đê, chống lại sự xoáy mòn của dòng chảy hoặc sự
va đập của các cơn sóng do tàu, thuyền hoặc gió thổi tạo ra.
Tán lá rộng, nhiều tầng, lá dày và to, không cho nước mưa
rơi trực tiếp xuống mặt đất, tránh được sự xoáy mòn của nước mưa trên
bền mặt của đất.
Với đặc điểm ưu việt về tái sinh chồi mạnh. Do đó,
bộ rể luôn luôn là tấm chắn sống bảo vệ bờ đê chống lại sự xoáy mòn của
nước và tăng thêm độ vững chắc cho bờ đê.
|
(Nguyễn Sơn Thụy - Chi cục Phát triển lâm nghiệp)
|
(23/11/2006)
|
Nguồn:
http://www.sonongnghiep.hochiminhcity.gov.vn/DetailNews.asp?ID=1168
Mướp rừng
Mướp rừng, Cây sâu răng, Cây mai rùa -
Cardiopteris lobata R. Br., thuộc họ Mướp rừng - Cardiopteridaceae.
Mô tả:
Dây leo phân nhánh nhiều. Thân mềm nhẵn, màu lục nhạt, chứa dịch nhầy
như sữa. Lá
hình tim nguyên hoặc chia thùy, có 3-5 thùy, thùy tận cùng lớn hơn. Cụm
hoa phân nhánh, hình ngù mọc ở nách lá hoặc đầu cành. Hoa nhỏ, màu
trắng. Quả có cánh.
Cây ra hoa tháng 9-11, có quả tháng 12-3
Bộ phận dùng: Lá -
Folium Cardiopteridis Lobatae.
Nơi sống và thu hái: Loài phân bố ở Nam Trung Quốc, Ấn Độ, Việt Nam, Inđônêxia. Ở nước ta,
cây mọc leo lên các cây bụi ở rìa rừng nhiều nơi từ Bắc Thái, Hà Tây tới vùng núi An Giang. Thu hái lá quanh năm.
Công dụng: Ngọn hay lá non thái nhỏ xào hay nấu canh ăn như rau Mồng tơi. Dân gian dùng lá
nhai nát ngậm rồi nhỏ cả nước lẫn bã để chữa sâu răng và đau răng.
Nguồn:
http://www.lrc-hueuni.edu.vn/dongy/show_target.plx?url=/thuocdongy/M/MuopRung.htm&key=&char=M
Cây diệp hạ châu và bệnh gan
Tôi nghe nói nước ta có cây diệp hạ châu chữa viêm gan do virut B và các
bệnh về gan tốt hơn và rẻ tiền hơn các loại thuốc tây rất nhiều. Xin
hướng dẫn cách nhận biết cây diệp hạ châu. Trên thị trường có dược phẩm
nào chứa diệp hạ châu bán ở nhà thuốc? Nguyễn
Ðình Giáp (Thị xã Hà Ðông)
Theo Tổ chức y tế thế giới (WHO), đến đầu thế kỷ 21 này ước tính có 400
triệu người trên thế giới mang mầm bệnh viêm gan do virut B trong đó 85%
số người này (340 triệu người) sống ở Ðông Nam á. Thuốc tây chữa viêm
gan do virut B có interferon và lamivudin
nhưng nói chung đắt tiền và có ít nhiều tác dụng phụ và gây khó chịu
cho người bệnh. Trong khi các cây thuốc chữa bệnh gan và viêm gan do
virut B ở Việt Nam như cây diệp hạ châu lại mọc hoang trên khắp mọi miền
đất nước.
Cây diệp hạ châu và bệnh gan
Còn có các tên khác: chó đẻ răng cưa, kiềm cam (loại ngọt), kiềm đắng, rút đất trân châu thảo, lão nha châu, diệp hòe thái.
Ðặc điểm chung: Diệp hạ châu tên khoa học là phyllanthus, thuộc họ thầu
dầu (euphorbiaceae) đắng và ngọt, là loại cỏ sống hàng năm hoặc nhiều
năm, gốc hóa gỗ, thân nhẵn có nhiều cành mang lá - mỗi cành trông như
một lá kép. Hoa, quả mọc phía dưới lá. Mùa hoa
quả: quanh năm. Hoa rất nhỏ, cánh màu trắng. Quả hình cầu nhỏ có 3
khía. Khi già tự nứt vỏ, tung hạt ra.
Tác dụng dược lý:
Chữa viêm gan do virut B: Năm 1988 Blumberg và Thiogarajan công bố đã
điều trị 37 bệnh nhân viêm gan do virut B bằng diệp hạ châu đắng. Sau 3
ngày dùng thuốc, 22 bệnh nhân đạt kết quả tốt, và chứng minh diệp hạ
châu đắng có chất ức chế men polymirase ADN của
virut viêm gan B.
Bệnh viện IV quân đội đã thử nghiệm lâm sàng đề tài Ðiều trị viêm gan B
mãn tính với hepaphyl của Xí nghiệp dược phẩm trung ương 25" trên 54
bệnh nhân - do các bác sĩ Nguyễn Thái Thanh, Lê Thế Huệ, Phạm Xuân Phi,
Nguyễn Hữu Nhật, Hồ Thị Phương Thảo. Sau 4 tháng
theo dõi, kết quả như sau: - Bệnh nhân viêm gan do virut B. Trước điều
trị làm xét nghiệm máu có HbsAg (+) sau điều trị bằng hepaphyl HbsAg
(-); giảm hoặc mất các triệu chứng lâm sàng của viêm gan B. Phục hồi
nhanh chức năng gan.
- Bệnh nhân viêm gan: sau khi điều trị bằng hepaphyl 15-30 ngày. Xét
nghiệm men gan SGOT, SGPT giảm 3 lần so với lúc chưa dùng thuốc. Lượng
bilirubin cũng giảm rõ rệt.
- Bệnh nhân bị mẩn ngứa, mụn nhọt ngoài da cũng khỏi.
Thành phần của viên hepaphyl có 200mg (0,2g) bột diệp hạ châu đắng và 20mg cồn nghệ.
Công dụng, cách dùng:
- Chữa suy gan (do nghiện rượu, sốt rét, ứ mật, lỵ amip, nhiễm độc)
Diệp hạ châu đắng 10g (Nếu là loại ngọt dùng 20g). Cam thảo đất 20g. Sắc nước uống hàng ngày.
- Chữa viêm gan do virut B
Diệp hạ châu đắng 10g, nghệ vàng 5g, sắc nước 3 lần, lần đầu với 3 bát
nước lấy 1 bát thuốc. Lần thứ 2 và 3 với 2 bát nước, mỗi lần lấy nửa bát
thuốc. Trộn chung rồi thêm 50 gam đường, đun sôi cho tan đường. chia
làm 4 lần uống trong ngày - sau 15 ngày dùng
thuốc xét nghiệm lại, khi kết quả xét nghiệm máu đạt HbsAg (-) thì thôi
dùng thuốc.
- Chữa xơ gan cổ trướng:
- Diệp hạ châu đắng 100g sắc nước 4 lần. Lần đầu với 3 bát nước lấy 1
bát thuốc, 3 lần sau mỗi lần sắc với 2 bát nước lấy nửa bát thuốc. Trộn
chung rồi thêm 100 gam đường, đun sôi cho tan đường. Chia làm 6 lần uống
trong ngày. Khi hết triệu chứng thì thôi dùng
thuốc (khoảng 30-40 ngày).
DS. Trần Xuân Thuyết
Nguồn:
http://www.nguyenkynam.com/capnhat/tap12/caydiephachau.htm
Làm giàu nhờ trồng cây hiếm: Diệp hạ châu, cây dại thành cây “vàng”
15/06/2009 22:37
|
Ông Châu Văn Đồng bên ruộng diệp hạ châu ở Tuy Hòa - Ảnh: Hùng Phiên
|
Ít ai ngờ cây diệp hạ
châu đắng (tên thường gọi là cây chó đẻ thân xanh) giờ đây lại giúp
nhiều nông dân ở Phú Yên không chỉ cơm no áo ấm mà còn làm giàu.
Diệp hạ châu đắng (tên khoa học Phyllanthus amarus) là cây thuốc đã
được người dân dùng từ lâu đời để chữa viêm gan, vàng da, viêm thận,
phù thũng, điều kinh. Gần đây, được chiết xuất chế tạo ra viên nang
Hamega giúp hạ men gan, hỗ trợ điều trị bệnh gan
nhiễm mỡ, viêm gan B, xơ gan, điều trị viêm gan do vi-rút... Nhu cầu
nguyên liệu diệp hạ châu đắng hiện đang rất lớn trong nước và trên thế
giới.
Kỹ sư Lê Thị Tuyết Anh, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu và sản xuất
dược liệu miền Trung (TTDLMT) đóng tại thôn Đa Ngư, xã Hòa Hiệp Nam,
huyện Đông Hòa, Phú Yên cho biết: hiện đã triển khai trên 20 ha cho 100
hộ nông dân tại Phú Yên trồng diệp hạ châu. Kết
quả khảo nghiệm nhiều năm qua của TTDLMT cho thấy điều kiện sinh thái
vùng ven sông, đất cát tại các huyện Phú Hòa, Tây Hòa, Đông Hòa... rất
thích hợp trồng cây diệp hạ châu chất lượng cao để chế biến thuốc và
xuất khẩu.
Chi tiết về quy trình trồng và cung ứng cây diệp hạ châu, bà con có
thể liên hệ TTDLMT theo số ĐT 057.3536009; Giám đốc kỹ sư Lê Thị Tuyết
Anh: 0913.148.019.
|
Một vùng rộng lớn đất rau màu phường Phú Thạnh (TP Tuy Hòa, Phú Yên) nằm
ven hạ lưu sông Ba, chỉ trong vài năm nay đã trở thành một vùng chuyên
canh diệp hạ châu trù phú. Ông Châu Văn Đồng (ở khu phố 3, phường Phú
Thạnh) kể: gia đình ông chuyển 6 sào (500m2/sào)
đất trồng rau màu sang thâm canh diệp hạ châu từ 2 năm nay; quy trình
kỹ thuật, giống và một số loại phân bón vi sinh đều được TTDLMT hỗ trợ,
lãi ròng luôn xấp xỉ 60 triệu đồng/năm, gấp 2 lần trồng rau màu và gấp
10 lần trồng lúa trên cùng diện tích. Một ưu
điểm nữa, theo ông Đồng, là chỉ cần làm đúng quy trình làm đất kỹ, tưới
nước nhẹ mỗi ngày hai bận, bón phân vi sinh đúng liều... thì chẳng phải
lo sâu bệnh hay cây kém phát triển.
Cuối năm 2008, Hội đồng khoa học công nghệ tỉnh Phú Yên đã cho
triển khai dự án “Trồng và phát triển cây dược liệu an toàn, phù hợp với
vùng đất Phú Yên để làm thuốc trong nước và xuất khẩu”. Theo đó, với
kinh phí trên 1,8 tỉ đồng, từ nay đến cuối năm
2010, TTDLMT sẽ chuyển giao giống, vốn và công nghệ cho nông dân trồng
15 ha dược liệu, trong đó cây diệp hạ châu chiếm đến 10 ha. Dự án đảm
bảo đầu ra cho người trồng với thu nhập từ 150-200 triệu đồng/ha/năm.
Diệp hạ châu có thể cho năng suất 15-16 tấn/ha/vụ
từ 50-60 ngày, mỗi năm trồng được 4-5 vụ.
Kỹ sư Tuyết Anh lưu ý: “Nông dân muốn trồng diệp hạ châu nên liên
hệ và có hợp đồng cụ thể với các đơn vị chức năng để đảm bảo cung ứng
sản phẩm đúng tiêu chuẩn theo sự điều tiết của nhu cầu thị trường, tránh
rủi ro”.
Hùng Phiên
Rau Má Và Bệnh Thấp Khớp
Russ Maslen/Thượng CH
Tháng
12 năm 2003 vừa qua, Trong chương trình phóng sự hàng ngày The Current
Affair của đài truyền hình số 9 tại Sydney có tường
thuật một số người Úc đã tự chữa bịnh thấp khớp bằng loại thảo dược dân
gian cổ truyền (folk medicine) . Mỗi ngày chỉ cần nhai hai lá rau má
tươi và nuốt sống, một thời gian sau, bịnh thấp khớp có thể giảm bớt
hoặc bình phục. Các bài tường thuật này trùng
hợp với tài liệu trong sách Arthrtis and Paradoxical Pennywort (Bịnh
thấp khớp và lá rau má) của tác giả Russ Maslen, nên chúng tôi xin trích
dịch một đoạn trong quyển sách ấy để cống hiến quý độc giả tham khảo.
“Rus Maslen ở tại vùng Mullumbimby tin tưởng rằng ông đã tình cờ khám phá ra loại rau cỏ có thể chữa được chứng phong thấp của
ông.
Nếu câu chuyện nhai mỗi ngày 2 lá rau má, một loại rau cỏ tầm thường
mọc hoang dã khắp nơi trên đất Úc có thể làm giảm đau và chữa lành hàng
ngàn bịnh nhân của chứng thấp khớp là sự thật thì đó là một chuyện hi
hữu. Rau má còn có tên là
Centella và thông thường người ta gọi nó là
Swamp Pennywort.
Đây là một loại rau bò sát mặt đất mọc hoang dã tại miền Bắc tiểu
bang Queensland chạy dài tận tiểu bang Tây Úc (Western Australia) và kể
cả tiểu bang hải đảo Tasmania nữa.
Ông Russ và bà vợ của ông đã được nổi danh vì là những người khởi xướng
và thành lập công viên bảo tồn di sản thiên nhiên Brunswick Valley trên
một đồng cỏ sỏi đá rộng 4 mẫu tây tọa lạc đối diện với ngôi nhà của ông
bà ở Mullumbimby.
Khi khởi sự vào công tác thành lập, đã có khoảng 12 người tình
nguyện phụ giúp. Nhưng con số này dần dà giảm thiểu, rồi vài năm sau đó
chỉ còn lại võn vẹn có hai vợ chồng ông Russ và bà Beryl săn sóc công
viên ấy mà thôi.
Chỉ có những cây cối bản xứ ở những địa phương như Tweed, Bruswick và
thung lũng Richmond, khoảng 400 chủng loại, được phép trồng ở công viên
này. Và nơi đây nghiễm nhiên đã trở thành địa phương bảo tồn thảo mộc,
trong số đó có vài loại hiện nay được tìm
thấy rất hiếm.
Vào tháng 7 năm 1989, một khách phương xa đến viếng công viên, thấy
ông Russ đang nhổ cọng rau má bò sát mặt đất dưới bóng mát của một tàng
cây lớn, bèn dừng lại nói chuyện với ông. Người đàn ông này đề cập huyên
thuyên về chuyện ông Russ đã vô tình cắt
bỏ đi loại cỏ dại mà theo ông ấy là “một thứ dược thảo quan trọng” .
Rồi sau đó diễn tả về hình dáng và đặc tính của loại rau này.
Ông nói tiếp : “Mỗi người chỉ cần nhai và nuốt hai lá rau má liên
tục, chỉ hai lá chớ không phải một hoặc ba, thì trong một thời gian sau
có thể chữa lành hoặc giảm bớt được bịnh thấp khớp”. Ông Russ lúc đó
không thấy hứng thú về dược thảo nên không màng
để ý và chỉ ít lâu sau đã quên phứt câu chuyện mà người khách phương xa
đã nói.
Một tháng sau, trong khi đang sửa soạn cho buổi ăn trưa, Beryl đã
than là không còn có thể đeo chiếc nhẫn cưới vào ngón tay được nữa. Các
ngón tay đều đau nhức, đặc biệt là các ngón của bàn tay trái. Ông Russ
bảo: “Những tiếng bực mình gắt gỏng luôn luôn
xảy ra trong nhà bếp. Tôi đã bảo về việc người đàn ông nọ đã miêu tả về
sự hữu dụng của cây rau má. Nhà tôi tin ngay và mỗi ngày đã nhai hai lá
một cách thường xuyên như đã được chỉ dẫn. Đến tháng 11 năm đó, Beryl
đã đeo chiếc nhẫn cưới vào ngón tay trở lại
được như xưa, các ngó tay khác thì không còn bị quặp xuống và đau nhức
nữa. Đồng thời những tiếng bực mình không còn được nghe thấy xảy ra
trong nhà bếp, chẳng hạn như những tiếng than đau nhức về các ngón tay” .
Đến tháng Tư năm sau, ông Russ đi khám bịnh đã được xét nghiệm thấy bị
viêm khớp ở các đốt xương cổ, nên thường hay cảm thấy đau nhức. Ông
cũng bắt đầu nhai hai lá rau má mỗi ngày để tự chữa như vợ ông. Chỉ ba
tháng sau, các triệu chứng của bịnh viêm khớp
không còn nữa.
Thấy rau má quả thật có hiệu nghiệm
trong việc chữa trị một số các chứng bịnh thấp khớp. Ông Russ cảm thấy
phấn khởi, nên đã bứng trồng vào các chậu nhỏ để tặng cho bà con và bạn
bè bị cùng chứng bịnh như ông. Tiếng đồn lan
xa. Sau đó rất nhiều người đến từ khắp nơi đổ xô về công viên này để
hỏi han về cây
Rau Má.
Ngoài ra ông cũng nhiệt tâm và cố gắng phổ biến cho những người
đồng bịnh ở các tiểu bang khác về cách trị liệu đặc biệt này. Theo ông
cho biết, đã có 15 bịnh nhân bịnh thấp khớp chỉ nhai hai lá rau má mỗi
ngày, sau ba tháng, đã hoàn toàn bình phục
hoặc thuyên giảm một cách rõ rệt gần như đã dứt hẳn. Mặc dầu cây Rau Má
có công hiệu thực sự trong việc chữa trị bịnh thấp khớp, nhưng sự kiện
này chưa được thử nghiệm và chứng minh bằng phương pháp khoa học. Nó
cũng không gây được sự hứng thú để người ta
làm một cuộc thử nghiệm như vậy.
Ông Russ Maslen bảo rằng ông đã
viết thư cho Phân Khoa Y Học của trường Đại Học Monash ở Melbourne và
Quỹ Giúp Đỡ Bịnh Nhân Phong Thấp (Arthritis Foundation) tại Sydney nhằm
cố gắng thuyết phục họ đưa vào chương trình nghiên
cứu để chữa bịnh lâm sàn. Nhưng cho đến giờ phút này, ông không nhận
được một sự phúc đáp nào. Ông buồn và bảo:
“Tôi nói bằng sự thật, qua kinh nghiệm, rau má
chữa được bịnh thấp khớp; nhưng tôi không có gì để chứng minh. Nếu nó
không công hiệu thì tôi đã thành thật bảo nó không công hiệu rồi” .
Ông tiếp: “Hiện
thời tại nước Úc, đã có hơn một triệu sáu trăm ngàn bịnh nhân bị bịnh
thấp khớp, và việc chữa trị bằng phương pháp này nếu được chấp thuận
cũng góp phần đáng kể. Nhưng tôi đã đủ cay đắng mà nghĩ rằng, bởi vì Rau
Má
là một loại cỏ hoang dại, tầm thường và không mất tiền mua, nên không
ai màng đến việc thử nghiệm nó. Theo tôi, nếu nó được thí nghiệm và được
công nhận có công hiệu đàng hoàng thì người ta cũng có thể hái ra tiền
trên loại rau cỏ hoang dại này”.
Xin lưu ý : Mỗi ngày nhai hai lá rau má để trị bịnh thấp khớp là liều lượng trung bình.
Không nên sử dụng quá liều trong một thời gian lâu dài vì nó có thể làm hạ huyết áp.
Source: Hội Thân Hữu Việt Nam Oct 5, 2004
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét