Chủ Nhật, 2 tháng 8, 2015

ĐẠO HIẾU

Đạo Hiếu: Đạo trọng nhất
của con người
 
·
 
Sau ngày 30-4-1975, đàn chim Việt không còn cái may mắn “Việt điểu sào nam chi” được nữa nên đã tung cánh đến bốn phương trời. Ở những nơi là quê hương thứ hai đó, đàn chim Việt đã học hỏi được nhiều điều hay, lạ cũng như nhiều điều không hay. Ở đây, chỉ xin nói về những cái hay. Cái dở - của mình  và của người - xin sẽ nói sau.
Một trong những cái hay ở Hoa Kỳ hay ở Pháp là những xứ này đặt ra “Ngày Từ Phụ” và “Ngày Hiền Mẫu” (Father’s Day, Mother’s Day hay Fête des Pères, Fête des Mères).
Chẳng phải do sáng kiến của người Hoa Kỳ, người Pháp hay người các nước khác mà người Việt chúng ta mới nhớ đến cha mẹ chúng ta. Tộc Việt vốn là giống dân hữu thần, trọng lễ nghĩa, truyền thống của dân tộc. Khi tam giáo (Phật, Khổng,  Lão) chưa du nhập Việt Nam thì người Việt đã biết kính thờ tổ tiên, trọng kính cha mẹ, thương yêu anh, chị, em và hầu như mọi gia đình đều lập bài vị ông bà, cha mẹ để thờ cúng. Những ngày giỗ kị thì thắp nhang, dâng hoa quả, cơm nước đặt trên bàn thờ để mong ông bà, cha mẹ (những người đã khuất) về hưởng. Nhà nghèo nhất cũng có bát cơm trắng với quả trứng luộc dâng lên với tất cả lòng thành. Tuy người đã khuất không hưởng được nhưng lễ nghi ấy lại cần thiết để giáo hóa con trẻ để sau này chúng cũng nhớ đến ông bà, cha mẹ như vậy.
Tam giáo du nhập Việt Nam rất sớm, như đạo Phật từ cuối thế kỉ thứ II, đạo Khổng, theo sử sách, kể từ Tích Quang (Thái thú Giao chỉ, đời Hán Bình đế), Nhâm Diên (thái thú quận Cửu Chân từ năm 29 đến năm 33), Sĩ Nhiếp (làm thái thú quận Giao Chỉ từ năm 187-226) lấy lễ nghĩa văn hóa dạy dân ta thì đạo Hiếu lại càng được khuyến khích nhiều hơn. Tôi nhớ trong mấy cuốn sách vỡ lòng về Nho giáo tôi đã học hồi năm, bảy tuổi, như Tam tự kinh, Minh Tâm bảo giám chính văn, và sau này tại trường đại học Văn Khoa Sàigòn, cuốn Đại học, thụ giáo LM Sàng Đình Nguyễn văn Thích, các sách đó bàng bạc toàn dạy về chữ Hiếu, chữ Nghĩa, chữ Trung Tín.... Xin trưng dẫn vài câu:
       Quân tử hữu bách sự, hiếu vi tiên.
       Người quân tử có một trăm công việc để làm, hiếu là ưu tiên.
Chẳng những quạt nồng ấp lạnh, phụng sự cha mẹ mà khi có công việc phải đi xa cũng chớ nên khinh xuất bỏ cha mẹ ở nhà một mình:
       Phụ mẫu tại đường, bất khả viễn du.
       Còn cha mẹ đấy, không nên đi chơi xa.
Chữ Hiếu trong kho tàng Ca dao, Tục ngữ lại càng nhiều nữa và hầu như ai cũng thuộc nằm lòng đôi câu:
       Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
       Một lòng kính mẹ, thờ cha
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con.
 
       Công cha đức mẹ cao dày
Cưu mang trứng nước những ngày ngây thơ
       Nuôi con khó nhọc đến giờ
Trưởng thành con phải biết thờ song thân
 
Ngó lên trời thấy cặp cu đang đá
 Ngó ra ngoài biển thấy cặp cá đang đua
       Ta về lập miếu thờ vua
Lập trang thờ mẹ, lập chùa thờ cha.
Nho giáo không dạy kĩ thuật mà chỉ dạy lễ nghĩa “tiên học lễ, hậu học văn”.
Hầu như câu nào trong Tứ thư (Đại học, Trung dung, Luận ngữ, Mạnh tử) và Ngũ kinh (Thi, Thư, Dịch, Lễ, Xuân thu) cũng dạy cách làm người: đạo Hiếu kính và Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín. Chúng ta hãy đọc lại bài “Thế nào là hiếu?” sau đây trích trong sách Luận ngữ:
Mạnh Ý tử hỏi thờ đấng thân, thế nào gọi là hiếu? Đức Khổng tử nói rằng: “Thờ đấng thân mà không ngang trái là hiếu.”
Thày Phàn Trì ngự xe cho đức Khổng, đức Khổng bảo cho rằng:”Họ Mạnh Tôn hỏi ta điều hiếu, ta thưa rằng:”Không ngang trái.” Thày Phàn Trì hỏi rằng:”Lời ấy là ý bảo thế nào?” Đức Khổng nói rằng:”Ta nói không ngang trái là không ngang trái với lẽ phải. Người con thờ đấng thân, khi đấng thân còn thì phụng dưỡng cho phải lễ; khi đấng thân mất thì tống táng cho phải lễ; khi tế đấng thân thì tế cho phải lễ.”
Mạnh Vũ Bá hỏi điều hiếu. Đức khổng tử nói rằng:”Cha mẹ chỉ chăm lo về tật bệnh người con.”
Thày Tử Du hỏi điều hiếu. Đức Khổng tử nói rằng:” Đời nay chỉ bảo rằng nuôi được cha mẹ là hiếu. Nhưng suy đến loài hèn như khuyển mã, cũng còn nuôi nó cả. Nếu nuôi cha mẹ mà chẳng kính thì có khác gì!”
Tử Hạ hỏi điều hiếu. Đức Khổng tử nói rằng:”Khi thờ cha mẹ, khó nhất là nét mặt hòa vui. Nếu kẻ đệ tử chỉ biết phục dịch làm thay việc khó nhọc cho phụ huynh và có rượu cơm mời ngài xơi, những điều ấy có kể là hiếu đâu!”
 (Nguyễn hữu Tiến và Nguyễn đôn Phục dịch).
Chú thích: Phàn Trì, Tử Du, Tử Hạ: học trò Đức Khổng tử. Mạnh Ý tử: quan đại phu nước Lỗ. Mạnh Vũ Bá: con Mạnh Ý tử.
Xem thế, vật chất cung phụng cha mẹ không quan trọng bằng tấm lòng, bằng cái tinh thần. Cha mẹ con cái, có no ăn no, có đói ăn đói, cùng nhau chia bùi sẻ ngọt, nét mặt, cử chỉ, lời ăn tiếng nói của con ôn tồn, kính cẩn thì dù hoàn cảnh thiếu thốn, cha mẹ nào cũng vui lòng. Trái lại, thừa mứa của cải, nuôi cha mẹ trong nhà nhưng đối xử như nuôi đầy tớ, dằn vặt, chì chiết, đập nồi quăng rế, chửi chó mắng mèo thì đến cao lương mĩ vị hàng ngày, giường êm nệm ấm ban đêm cha mẹ cũng buồn tủi mà xin đi! Cái nét mặt đức Khổng tử nói chính là cách đối xử, ăn ở vậy.
 Đạo Phật cũng hoằng dương đạo Hiếu. Chuyện kể rằng có một phụ nữ tuy không vào chùa xuống tóc đi tu nhưng mộ đạo lắm, giữ mọi giới của nhà Phật.
Một bữa, chị thấy buồng chuối ngoài vườn có vài nải chín vàng, trông tươi đẹp, ngon lành. Chị cắt cả buồng, để lại mấy nải còn xanh, bỏ hai nải chín đẹp nhất vào trong cái rổ, lấy vỉ đậy lại rồi hối hả đội lên chùa, hí hửng lễ Phật, nghĩ rằng ắt sẽ được nhiều phước.
Chị vào đến cổng chùa, sân chùa vắng ngắt vắng ngơ vì là ngày thường, chị đi thẳng vào gian bếp, thấy chú tiểu đang đứng tưới cảnh ngoài vườn, chị chào hỏi và mượn chú cái đĩa lớn. Đặt chuối vào đĩa, chị đưa lên gian tam bảo, đặt đĩa chuối trước bàn thờ Phật, đốt thẻ hương, khấu đầu vái lạy hết lòng cung kính rồi cắm hương vào bát, ra về.
Chị vừa ra tới sân thì gặp Hòa thượng trụ trì. Rổ cắp ở tay, chị cúi đầu chào sư cụ. Sư cụ đã biết chị từ lâu nhưng ngạc nhiên sao hôm nay ngày thường chị cũng lên chùa.
       “Bạch hòa thượng.”
       “Chào thí chủ. Thí chủ có việc gì lên chùa hôm nay?” Sư cụ hỏi.
       “Bạch hòa thượng, buồng chuối trong vườn có nải chín đẹp và ngon lắm, con đưa lên cúng Phật.”
       “Chị để chuối ở đâu rồi?”
       “Thưa cụ, con đã thắp hương và cúng trên bàn thờ Phật.”
       “Đâu, chị chỉ cho tôi coi.”
Người đàn bà đi trước hướng dẫn sư cụ vào trước bàn thờ Phật. Cây hương còn cháy và đĩa chuối vàng tươi vẫn y chỗ cũ. Sư cụ bảo người đàn bà:
       “Thí chủ có lòng đến lễ Phật, lại cúng quải những thứ đặc sản của vườn nhà, một điều rất quí hóa. Ta có nghe, thí chủ còn song thân phải phụng dưỡng, phải không?
       “Bạch hòa thượng, phải.”
“ Vậy thí chủ đã dành nải nào dâng lên song thân thí chủ chưa?”
Người đàn bà luống cuống vì câu hỏi. Còn lại bốn nải nữa nhưng chị không định dành cho cha mẹ nải nào mà chỉ đợi phiên chợ tới, đem ra bán. Chị trả lời cho qua:
“Dạ, thưa hòa thương, mấy nải kia còn xanh, khi chín con sẽ dâng cha mẹ.”
“Không,” Giọng sư cụ ôn tồn nhưng nhìn nét mặt luống cuống của người đàn bà, sư cụ đã đoán ra, hơn nữa lời đồn về chị ta đối với cha mẹ không tốt đã vô tình đến tai sư cụ từ lâu nay, ” Thí chủ phải dành những nải này cho cha mẹ thí chủ đã, những nải kia chín hãy đem cúng dường. Nếu thí chủ không dâng cha mẹ trước thì Phật không nhận lễ vật của thí chủ đâu.”
Nói xong, sư cụ cầm đĩa chuối trao cho người đàn bà:
“Thí chủ hãy cầm về dâng lên cha mẹ. Cha mẹ thí chủ chính là Phật sống tại gia của thí chủ đó.”
Người đàn bà mắc cở đỏ mặt, vái chào sư cụ xong cắp rổ chuối đi một mạch.
Trong những kinh nhà Phật, Phật cũng dạy:
Thiên chi cực mạc đại ư hiếu, ác chi cực bất hiếu giả: Hiếu thảo là điều thiện to lớn nhất, bất hiếu là điều ác to lớn nhất.
Thế nhược vô Phật, thiên sự phụ mẫu. Sự phụ mẫu tức thị sự Phật. Người sinh ra đời không gặp Phật mà phụng thờ cha mẹ thì cũng như thờ Phật.
       Tu đâu bằng tu tại gia
Thờ cha kính mẹ mới là chân tu.
Cách nay hơn bốn thế kỉ, Thiên Chúa giáo từ phương Tây truyền vào Việt Nam qua các nhà truyền giáo Pháp, Tây ban Nha, Bồ đào Nha, Ý đại lợi. Thiên chúa giáo hay Kitô giáo cũng dạy con người phải “thảo kính cha mẹ.” Trong 10 điều răn của Thiên Chúa buộc giáo dân phải hết sức giữ thì ba điều đầu nói về bổn phận của tín hữu đối với Thiên Chúa, đấng toàn năng sinh ra vũ trụ vạn vật. Điều thứ 4 nói về bổn phận làm con đối với cha mẹ, đứng trên các điều đối với người ta (từ 5-10) đủ biết bổn phận này quan trọng như thế nào. Khi có dịp, các Linh mục trong các thánh lễ cũng giảng giải về điều răn thứ 4 này một cách kĩ lưỡng để mọi giáo dân ý thức bổn phận làm con đối với cha mẹ.
Trước kia việc thờ cúng ông bà, tổ tiên còn bị thắt chặt vì nơi xuất phát đạo Thiên Chúa là Âu châu lại không có tục thờ cúng ông bà, tổ tiên. Nhưng từ sau Công Đồng Vaticanô II, hội thánh Công giáo đã thích nghi với những tập tục, thói quen thờ cúng ông bà tổ tiên của dân Á châu nên nới rộng rất nhiều. Khi tôi còn bé, quan tài người chết mang vào nhà thờ làm lễ không thể cùng đi với khung ảnh người quá cố, nhất là lại để khung ảnh ấy trên cao nhìn xuống giống như bức ảnh một vị thánh. Hồi đó không cho thắp nhang trong nhà thờ và dù là con cháu cũng không được lậy người đã quá cố. Ngày nay, nhiều tập tục đã được dễ dàng.
Có một câu chuyện tôi nghe được khi còn rất bé, nhớ đến ngày nay, xin kể hầu quí vị.
Thầy tôi có một người cháu, con bà chị ruột, ở họ Thôn Đông, Trà Đoài, đã thụ phong Linh Mục từ khi tôi mới khoảng 10 tuổi. Hồi trước tôi không biết Ngài đi những giáo xứ nào nhưng sau này Ngài là Bế trên dòng Trinh Vương, nhà dòng chính ở Bùi Môn. Một bữa Linh mục và ông bà cố đến thăm thầy mẹ tôi vì thầy tôi mới từ Hà Nội về. Trong bữa cơm gia đình thật vui vẻ, Linh Mục Trung hỏi thầy tôi:
“Thưa cậu, đã lâu con không được nghe chuyện của cậu. Cậu ở Hà Nội về, có chuyện gì hay cậu kể cho cả nhà nghe cho vui.”
Sau khi kể một câu chuyện vui, thầy tôi hỏi Linh mục:
“Bây giờ cậu hỏi Trung nhé. (Thày tôi chỉ gọi tên, không gọi là cha). Nếu như có người vào xưng tội với Trung là anh đó (hay chị đó) đã hỗn láo chửi  cha mắng mẹ, Trung có tha tội cho người ta không?”
Linh Mục Trung suy nghĩ một chút rồi nói:
“Thưa cậu, con cũng tha cho họ với điều kiện là họ phải về xin lỗi cha hoặc mẹ mà họ đã làm phiền lòng, lại cũng hứa không tái phạm. Cũng tựa như khi người ta xưng tội lấy tiền bạc của cải  của người khác thì phép công bằng đòi buộc họ phải trả mới hết tội. Lấy tiền bạc hay lấy mất danh dự của người ta thì cũng như nhau, một đàng vật chất, một đàng tinh thần, thưa cậu.”
Thầy tôi khen ngợi Linh mục Trung hết mình. Ông rất hãnh diện có một ông Linh mục cháu giỏi giang đạo hanh như thế (LM Trung đã qua đời khoảng 6 tháng nay, 2006) Những năm ở Sàigòn, vùng Hóc Môn là khu cử tri của tôi khi tôi là Dân Biểu Hạ Viện. Đi hoạt động ở Hóc Môn rất thường nên thỉnh thoảng tôi lại ghé vào thăm LM Trung. Khi gặp bữa, Ngài bảo:
”Hôm nay chú có bận đi đâu không?”
“Thưa anh, em được rảnh cho đến 2 giờ.”
“Vậy chú ở đây ăn cơm trưa với anh rồi hãy đi.”
Cơm nhà Dòng thanh đạm nhưng cái tình thì đầy ắp những yêu thương và thanh tịnh như những bông huệ trắng tươi các Nữ tu trồng ở lối vào Tu viện.
 Nhờ vì thường ghé, tôi quen các Nữ tu ở nhà Dòng rất nhiều. Tôi cũng nợ các Nữ tu nhiều vì ngày bầu phiếu, tháng 29-8-1971, hơn 400 Nữ tu nhà dòng đã bỏ phiếu cho tôi. LM Trung không xin phiếu cho tôi mà chỉ bảo:”Các chị coi tiểu sử của chú ấy, được thì bó, không thì chọn người khác.” Sau khi đắc cử, tôi tới cám ơn ông anh Linh mục và nhà Dòng. Nữ tu coi sóc nhà Dòng bảo tôi:”Chị em tôi đã lựa trong số 98 Ứng cử viên đơn vị (6 ghế)Tân Bình-Hóc Môn-Bình chánh này, sau cùng đồng ý dồn phiếu cho “quan chú”. Hơn 400 Nữ tu đi bỏ hết, chúng tôi bỏ “độc phiếu” cho quan chú chứ thực ra được phép bỏ tối đa 6 người.”
Tôi chỉ còn biết cám ơn nhà Dòng.
Linh Mục Trung đã làm cho dòng Trinh Vương khởi thủy là một nhà dòng nhỏ sau ít năm đã thành một dòng lớn, rất đông Nữ tu. (tôi không biết chính xác “sĩ” số). Nếu tôi không lầm, ở Hoa Kỳ cũng có một Chi nhánh.
Trở lại với ngày “Từ Phụ” và ngày “Hiền Mẫu” ở  Hoa Kỳ, tức vào khoảng giũa tháng 6 và tháng 5 dương lịch. Hầu như mọi gia đình ở Hoa Kỳ đã dùng hai ngày này để con cái nói lên lòng hiếu thảo đối với cha mẹ. Đây là một tập tục tốt, nước Việt Nam cũng nên đặt ra hai ngày đó, không phải để tiêu thụ hàng hóa nhưng để ôn lại đạo Hiếu, đạo quan trọng nhất của con người trong khi tôn giáo là đạo với thần linh, ai tin thì theo, ai không tin không có luật nào bắt buộc. Nhưng đạo Hiếu là đạo bắt buộc vì không ai là không có cha mẹ. Người chỉ hơn thú vật ở chỗ biết cha mẹ, thảo kính cha mẹ. Nếu không biết trọng kính cha mẹ tất nhiên những hạng người đó đã tự đặt mình ngang với loài súc vật rồi. Ở thời đại chúng ta, có thiếu gì những kẻ vì quyền lợi riêng tư, phe đảng, muốn ăn trên ngồi trốc, hay lòng dạ độc ác đã nhẫn tâm hành hạ, đày đọa cha mẹ. Những kẻ ấy không thể được dùng danh từ “người” vì chúng bất xứng, bôi nhọ con người.
Trong Kitô giáo, cứ sau lễ các Thánh (Toussaint) vào tháng 11 là đến Lễ Cầu hồn. Mọi gia đình đi dự lễ cầu cho ông bà, cha mẹ, xong ra nghĩa trang đặt vòng hoa tưởng niệm và cầu nguyện tại chỗ. Thầy tôi dùng lễ này hoặc là trước Tết Nguyên Đán, cùng con cháu đi tảo mộ ông bà, tức sửa sang phần mộ, đắp thêm đất hoặc xây gạch, chỉnh đốn bia mộ. Người Việt mình có câu:”Sống vì mồ vì mả, không sống vì cả bát cơm” do đó mồ mả tiền nhân rất quan trọng.
Sau bữa cơm đoàn tụ gia đình, khá giả thì giết con chó, không thì mua thịt lợn ở chợ, người trưởng tộc hay anh cả nói về cha mẹ, ông bà đã khuất cho cả gia tộc cùng nghe, kể những đức tính tốt, những tài năng, thiên khiếu để khuyến khích các cháu chắt noi gương ông bà, làm rạng danh cho gia tộc.
Phật giáo dùng ngày 15-7 âm lịch làm lễ Vu Lan để nhớ đến công đức ông bà cha mẹ, đã khuất hay còn sinh tiền. Ngày Vu Lan người ta nhắc đến chuyện Mục Kiền Liên cứu mẹ trong ngục a tì vì mẹ đã làm điều ác bị đọa xuống đó. Lòng hiếu thảo của Mục Kiền Liên đã giúp mẹ sớm thoát cảnh đọa đày.
Còn người Nhật có tập tục nhân ngày nhớ ơn cha mẹ, bạn đi ra đường, nếu bạn trả lời thiếu nữ tiến đến trước bạn rằng cha mẹ bạn đã khuất núi cả thì thiếu nữ sẽ cài lên ve áo bạn một bông hồng bạch. Trái lại, nếu bạn còn cha hoặc mẹ, bạn sẽ được cài một bông hồng đỏ tượng trưng sự vui mừng, trái với mầu trắng là mầu tang tóc, buồn tủi.
Trong cuộc đời viết văn, làm thơ, làm báo gần nửa thế kỉ (từ 1958), tôi đọc được rất nhiều bài viết cảm động về mẹ nhưng rất ít về bố. Tôi hiểu rằng đứa con bao giờ cũng gần gũi với mẹ hơn bố nhưng không lẽ nói về mẹ mười bài, ta không có một bài cho bố ta sao? Có những nhà thơ, nếu gọi được họ là nhà thơ, cả đời chỉ ca tụng ái tình và đàn bà. Người đàn bà kế là mẹ mà chẳng bao giờ thấy họ “đụng đậy” đến những ông bố. Không lẽ họ không có bố? Tôi yêu thương mẹ tôi thế nào thì tôi yêu thương bố tôi như thế. Ngoài ra, nếu kể về phương diện tinh thần thì bố tôi khai tâm, chỉ bảo cho tôi nhiều hơn bởi lẽ bố tôi học nhiều hơn mẹ tôi. Nếu bố tôi không cho tôi một hạt mầm để hợp với cái trứng của mẹ tôi thì chắc chắn không có tôi. Hạt bụi là tôi khởi đầu từ bố tôi.
Nhân tiện cũng xin đề cập, khi tôi còn nhỏ, theo tập tục của những nhà Nho, bố tôi bảo con cái gọi bố tôi là thầy vì ngoài việc sinh thành, thầy còn khai tâm mở trí cho mình. Chữ dùng khác là bố, hoàn toàn Việt Nam, còn chữ “ba” nó lai căng từ tiếng Pháp “papa” đi với “maman” (má măng) mà ta gọi tắt là “má”. Ba nên đi cặp với má, bố với mẹ, cho nó thuần túy Việt Nam. Nên nhớ tiếng “ba” không có văn vẻ hơn tiếng “bố”. “Ba” đi với “mẹ”, nghe nửa tây, nủa ta, nửa nạc nửa mỡ.Tuy nhiên, ai thích gọi sao tùy ý. Ta cũng nên biết, con cái tộc Việt đã gọi “bố” từ thời Lạc long quân. “Bố ơi, sao bố không về mà cứu chúng con?”Có một vị tướng tài là “Bố cái Đại vương” . Cái là mẹ.
Để kết thúc bài Phiếm về đạo Hiếu nhân lễ Vu Lan, tôi xin sửa đổi đôi chút về câu ngụ ngôn Pháp:”Hãy cho tôi biết anh (chị) giao du với ai, tôi sẽ nói anh (chị) là hạng người nào.” thành ra:”Hãy cho tôi biết anh (chị) đối xử với cha mẹ ra sao, tôi sẽ cho biết anh (chị) là hạng người nào.” Kẻ đã coi bố mẹ đẻ dứt ruột ra như cục gạch thì những người khác, chúng coi ra cái gì!”

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét