Một hòn đá stromatolites (một loại đá trầm tích cổ, thường chứa các loại vi
khuẩn hóa thạch) tìm thấy ở công viên quốc gia Glacier, Mỹ. Vào năm 2002,
William Schopf của UCLA
đã cho rằng mẫu đá này đã có từ 3.5 tỉ năm trước.Xem thêm ở Is
this life?. Nếu đúng, đây có thể là hình thái sự sống đầu tiên trên Trái
Đất.
Nghiên cứu về nguồn
gốc sự sống là một trong những lĩnh vực con người về bộ môn sinh học
và thế giới tự nhiên là dựa trên nó. Mặc dù công việc nghiên cứu về lĩnh vực
này rất chậm nhưng nó luôn luôn thu hút sự chú ý của nhiều người bởi vì đây là
một câu hỏi rầt lớn và rất khó. Một số những sự kiện đã cho chúng ta biết một
phần điều kiện tạo nên sự sống, nhưng cơ chế bên trong tạo nên sự sống vẫn là một điều bí ẩn.
Thế kỉ thứ 4 trước Công nguyên, Aristotle
đã trình bày dựa trên những điều mà con người thời đó biết được, ít nhất là ở châu Âu,
rằng những vật thể sống phát sinh từ những vật thể không sống.
Ví dụ như bọ
chét và chuột
phát sinh từ những đống rác cũ hay bột mì,
những con giòi
và ruồi
trong thịt thối, rệp trong sương. Cuộc
sống, nói ngắn gọn hơn, là bắt nguồn từ sự phát triển tự nhiên. ( cac ông nà
không nói gì đến chúa sáng tạo cả)
Những nhà khoa học đầu thế
kỉ 18 đã lật đổ những học thuyết của Aristotle, nhưng phải đến những thí
nghiệm của Louis Pasteur vào năm 1862 ( Pasteur đã để
lên 1 cái bàn, ngoài sân, 2 cái dĩa cách xa nhau 2 gang tay , mỗi dĩa có 1
miếng thịt heo chưa chín to bằng bàn tay như nhau .
- dĩa số 1 chỉ có miếng thịt, không có đậy
nắp
- dĩa số 2 có miếng thit, nhưng ta úp lên nó
1 cái chuông bảng thủ tinh trong suốt bịt kín , rồi hút không khí bên trong ra.
12 giờ sau, dĩa sô’ 1 có dòi , dĩa số 2 không
có gì hết, tuy nhiên nó cũng bị thối rữa
như dĩa số 1 , kết luận dĩa số 1 đã bị ruồi cái hửi thấy mùi thịt thối
mà bay lên đẻ trứng, trứng đã nở thành dòi)
Người ta mới chắc chắn rằng một nơi đã được
vô trùng thì sẽ vĩnh viễn không có bất cứ sinh vật nào
phát sinh trong nó được nữa. Ngoài ra ông cũng cho rằng sự sống chỉ có
thể phát sinh từ những cơ thể sống phức tạp khác. Những công trình của Pasteur
có thể được tóm tắt trong một định luật mà ngày nay chính là nền tảng của
thuyết tiến hóa hiện đại: Định luật phát sinh sinh vật: "Mọi cuộc sống đều
bắt đầu từ trứng" (nguyên bản tiếng Latinh omne vivum ex ovo)./
Ngành khoa học sinh vật hiện đại đang phải
đương đầu với một câu hỏi cao hơn: sự sống bắt nguồn "đầu tiên" ở
đâu? Pasteur đã chứng minh rằng những sinh vật bậc cao không thể phát sinh một
cách tự nhiên.
Lý
thuyết về tiến hóa của Charles Darwin đã đưa ra một cơ chế để giải thích
điều này: sinh vật phải mất hàng ngàn năm để tiến hóa từ những dạng cơ bản,
nhưng nó sẽ không mang những đặc điểm như lúc trước nữa, nhưng những sinh vật
cơ bản ấy sẽ từ đâu ra? Darwin
rất quan tâm đến vấn đề này. Trong một là thư gửi cho Joseph Dalton Hooker
ngày 1
tháng 2 năm 1871,
Darwin đã cho rằng sự sống bắt nguồn từ "một cái hồ nước ấm áp có chứa đầy
các loại muối ammonia và phosphate, ánh sáng, nhiệt độ, điện,... để các hợp
chất protein có thể hình thành và trải qua những biến đổi phức tạp".
Tiếp theo đó, Darwin tìm cách lí giải luận điểm của mình
"vào bây giờ, những điều kiện như thế nếu tồn tại sẽ bị biến mất ngay lập
tức, ngoại trừ trước khi tất cả các sinh vật sống được sinh ra". Nói một
cách khác, sự khai sinh các dạng sống phức tạp có thể một phần nào ngăn cản sự
tạo thành những hợp chất hữu cơ cơ bản trên Trái
Đất, một điều kiện khiến cho việc đi tìm câu trả lời cho câu hỏi trên nằm
trong phòng thí nghiệm.
Câu trả lời cho câu hỏi của Darwin vẫn nằm ngoải tầm
hiểu biết của khoa học hiện đại, và hầu
như không có một tiến bộ nào trong lĩnh vực này vào thế
kỉ 19.
Năm 1936, Aleksandr Ivanovich Oparin,
trong cuốn sách nổi tiếng của mình "The Origin of Life on Earth"
(Nguồn gốc của sự sống trên Trái Đất), đã cho thấy rằng sự hiện diện của không
khí chứa ôxy và
những hình thái sống phức tạp đã ngăn cản những chuỗi phản ứng có thể tạo nên
sự sống. Oparin còn cho rằng, một "món súp nguyên thủy" với những hợp
chất hữu cơ chỉ có thể tạo thành ở những nơi thiếu ôxy, qua ánh sáng Mặt
Trời. Sau đó, ông cho rằng chính những hợp chất hữu cơ cao phân từ hòa tan
trong nước thành các dung dịch keo, các dung dịch keo này có thể hòa tan vào
nhau tạo thanh những giọt rất nhỏ gọi là coacervate. Những giọt này có thể
lớn lên nhờ hấp thụ các giọt khác, có thể sinh sản khi có những tác động cơ
giới chia nó ra làm các hạt nhỏ hơn, do đó nó có các tính chất cơ bản của một
tế bào nguyên thủy. Tất cả những học thuyết hiện đại
đều khởi đầu từ những luận điểm của Oparin.
Những thuyết hình thành sự sống hiện đại
Trong thực tế không có một thuyết chuẩn nào
về nguồn gốc sự sống. Tuy nhiên, những thuyết được người ta chấp nhận nhiều
nhất đều được xây dựng trên một số những phát hiện về cấu trúc phân
tử và tế bào. Chúng bao gồn những luận điểm sau:
1. Ở những điều kiện thích hợp, những vật chất không sống
có thể tạo nên những phần cấu tạo nên tế bào sống, như amino acid.
Điều này đã được chứng minh qua thí nghiệm Urey-Miller do Stanley L. Miller và Harold
C. Urey vào năm 1953.
2. Những hợp chất phospholipid với độ dài thích
hợp có thể tạo nên màng lipid, một trong hai thành phần chủ yếu của màng màng
tế bào.
3. Quá trình trùng hợp của nucleotide
trở thành những mạch ARN
ngẫu nhiên dẫn đến sự nhân đôi các ribozyme (giả
thiết "Thế giới ARN" của Carl Woesoe).
4. Những thúc đẩy tự nhiên về tính xúc tác tốt và tính đa
dạng đã tạo nên các ribozyme có khả năng chuyển hóa peptide thành các hạt
protein nhỏ. Từ đó, các oligopeptide cùng với ARN tạo thành những chất xúc tác
tốt hơn hình thành. Do đó sinh ra các hạt ribosome, làm
cho sự hình thành các protein được dễ dàng hơn.
5. Protein đã vượt qua ribozhyme về khả năng xúc tác, và
trở thành một lớp màng sinh học cơ bản nhất. Acid nucleic chỉ còn tìm thấy
trong các gen tế bào.
Nguồn gốc của các tế bào, trong khi chưa được
rõ ràng, có thể gây ra tranh cãi về mức độ quan trọng và thứ tự của bước 2 và
3. Những hợp chất vô cơ và hữu cơ cơ bản nhất tạo nên sự sống là methane (CH4),
ammonia (NH3), nước (H2O),
hydro
sulfua (H2S), carbon dioxit (CO2) và phosphate (PO43-).
Cho đến năm 2006, chưa có một ai đã điều chế nhân tạo được một tế bào nguyên
mẫu từ những chất cơ bản. Nhà sinh vật học John Desmond Bernal, đã
đưa ra ba quá trình mà qua đó sự sống hình thành:
Bước 1: Sự hình thành các monomers
Bước 2: Sự hình thành các polymers
Bước 3: Sự tiến hóa từ các cấp độ phân tử lên
đến tế bào
Bernal còn cho rằng: sự chọn lọc tự nhiên như
Darwin có thể
bắt đầu từ rất sớm, có khi từ giữa giai đoạn 1 và 2.
Nguồn gốc của các chất hữu cơ: Miller, Eigen và Wächtershäuser
Thí nghiệm Miller (do Harold Urey và học trò
của mình là Stanley Miller) thực hiện vào năm 1953 nhằm tái tạo lại những điều
kiện được cho rằng có từ lúc Trái Đất xuất hiện. Thí nghiệm sử dụng một hỗn hợp
các chất khí như: methane, ammonia và hidro. Tuy nhiên, tỉ lệ của các chất khí
trong khí quyển Trái Đất cổ đại vẫn là một điều gây tranh cãi. Đã có thời người
ta nghĩ rằng một lượng ôxy đáng kể trong bầu khí quyển, nhưng chính ôxy lại
ngăn cản sự hinh thành các hợp chất hữu cơ.
Thí nghiệm cho thấy với những mắt xích hữu cơ
đơn giản như amino acid có thể trùng hợp tạo thành một khối vật chất sống.
Những chất hữu cơ cơ bản dĩ nhiên là khác xa so với những tế bào có thể tự sinh
sản được. Tuy nhiên, trong một môi trường mà chưa có sự sống nào hình thành
trước thì các chất hữu cơ này sẽ được tích trữ lại và đến một lúc nào đó sẽ có
một sự tiến hóa hóa học. Hơn nữa,
sự hình thành các polymer phức tạp từ các monomer dưới những điều kiện như thế
không phải là một quá trình dễ dàng. Bên cạnh những monomer cần thiết, những
hỗn hợp có tác dụng ngăn cản sự hình thành các polymer. Hơn nữa, theo như
Brooks và Shaw trong cuốn Origins and Development of Living Systems
(Nguồn gốc và sự phát triên của các hệ thống sống), không có một dáu hiệu địa
lí nào cho thấy tồn tại sự tích tụ các chất hữu cơ như trên:
"Nếu
có sự tích tụ nào của các chất hữu cơ, chúng ta nên hi vọng sẽ tìm được một nơi
nào đó trên Trái Đất mà trầm tich chứa đầy nhưng hợp chất hữu cơ chứa nitơ,
acid, chất khử, khoáng lưu huỳnh hay những thứ gì đó tương tự như thế; hay
trong những trầm tích đã biến đổi, chúng ta ít nhất cũng phải tìm được những
hợp chất nitơ. Thực tế là những chất như thế vẫn còn chưa được tìm thấy trên
Trái Đất.
Một số nguồn khác tạo thành các hợp chất hữu
cơ phức tạp đã được công nhận: ví dụ như những yếu tố từ ngoài Trái Đất như các
thiên thạch. Ví dụ như trong phân tích quang
phổ, các hợp chất hữu cơ đã được tìm thấy trong các thiên thạch và cả sao chổi.
Vào 2004, một số hợp
chất hữu cơ thơm mạch vòng (PAH, viết tắt của polycyclic aromatic
hydrocarbon) đã được tìm thấy khi quan sát các tinh vân.
Sự hiện diện của PAH chính là nguồn gốc của "thế giới ARN" trong
thuyết "thế giới PAH".
Có một số tranh cãi rằng vấn đề chủ yếu vẫn
chưa được trả lời bằng thuyết này là làm cách nào mà những phân tử hữu cơ đơn
giản lại có thể hình thành nên những hợp chất hữu cơ phức tạp, tương tác với
nhau như thế nào để tạo thành một tế bào. Ví dụ, trong một môi trường nước, sự
thủy phân các polymer tạo thành các monomer có ưu thế hơn sự ngưng tụ các
monomer thành polymer. Thí nghiệm Miller cũng đã tạo thành những chất chắc chắn
phải phản ứng với amino acid, từ đó, chấm dứt chuỗi peptide.
Vào đầu thập kỉ 1970, một vấn đề lớn được
phát hiện về nguồn gốc sự sống đã được phát hiện bởi một nhóm nhà khoa học tại Học viện Max Planck. Họ
tìm các xem xét những bước tạm thời trong phản ứng giữa những chất trong
"món súp nguyên thủy" và những bước tạm thời trong các bước nhân đôi
các mạch carbon vòng. Kết quả là, trong phân tử carbon mạch vòng, bộ phận lưu
trữ thông tin (có thể là ARN) đã tiết ra một chất enzyme, giúp cho sự tạo nên
một hệ thống thông tin mới, cứ liên tục như thế cho đến khi một hệ thống thông
tin cuối cùng hỗ trợ cho hệ thống đầu tiên. Hệ thống đó được gọi là quasispecies, trải qua quá
trình chọn lọc tự nhiên rồi trở thành một sinh vật. Một trong những bằng chứng
của thuyết carbon vòng là sự khám phá ra ARN, trong một số trường hợp có thể
chuyển hóa thành ribozymes, một dạng enzyme tạo thành ARN.
Một câu trả lời cho sự biến hóa hóc búa này
được đưa ra vào thập kỉ 1980 bởi Günter Wächtershäuser,
trong một học thuyết mang tên "thế giới sắt – lưu
huỳnh". Trong lý thuyết này, ông ta đã đưa ra một lý thuyết mới về
sự tiến hóa sinh hóa học chính là nguồn gốc của sự sống.
Hơn nữa, ông ta đã đưa ra một hệ thống rõ
ràng về những chứng cứ sinh hóa từ những phản ứng khác tạo ra chất hữu cơ từ
những chất khí cơ bản. Trái với những thí nghiệm của
Miller, đòi hỏi rất nhiều những nguồn năng lượng khác như tia UV, sấm
sét,... hệ thống Wächtershäuser bao gồm nguồn năng lượng khác: sắt sulfide và
một số khoáng chất khác (ví dụ: khoáng pyrite). Năng lượng này được giải phóng
từ những quá trình ôxi hóa-khử những sulfide kim loại và là nguồn năng lượng
chính để tạo ra những phân tử hữu cơ cơ bản và cả polymer. Vì vậy, có thể cho
rằng một hệ thống như thế đã từng tồn tại và đã có một ảnh hưởng đến sự tự nhân
đôi, chuyển hóa một cách tích cực tạo thành nhựng thực thể, tiền thân của những
sinh vật ngày nay. Cuốn sách Peptides by activation of amino acids with CO
on (Ni,Fe)S surfaces: implications for the origin of life (Peptide bởi sự
hoạt hóa với carbon oxide trên bề mặt (Ni,Fe)S: sự liên quan đến nguồn gốc sự
sống) của ông xuất bản năm 1998 đã được đánh giá là thiếu tính khách quan do không đưa vào
những chất hữu cơ mà những nhà khoa học khác cho là sẽ phản ứng với nhau hay
bền. Sửa đổi mới nhất trong lý thuyết "thế giới sắt – lưu huỳnh" đã
được đưa ra bởi William Martin và Michael Russell vào
năm 2002. Theo như nghiên cứu của họ thì, phân tử đầu tiên của sự sống
có thể đã được hình thành trong những mạch khoáng dưới đáy biển.
Đây là một nơi có rất nhiều những khoáng chất
có gốc sulfide được phun ra rồi đóng rắn lại tạo thành một hệ thống các hang
động ngầm rất nhỏ. Do đó, hệ thống này có thể giải
quyết những yếu điểm trong học thuyết Wächtershäuser.
1. Những hang động nhỏ được tạo ra là một cách để tập
trung các chất được tổng hợp thành, do đó có nhiều khả năng tạo được các chất
hữu cơ cấp cao.
2. Nhiệt độ trong những mạch khoáng cao chênh lệch với
nhiệt độ thấp bên ngoài cho phép tạo nên một số nơi những vùng mà phản ứng thực
hiện hiệu quả hơn những vùng khác (monomer ở vùng nóng, polymer ở vùng lạnh).
3. Dòng hải lưu qua vùng mạch khoáng khi đi ngang qua
những hang động nhỏ cũng một phần làm sạch những nguồn nguyên liệu đã hết và
cung cấp thêm nguồn nguyên liệu mới.
4. Mô hình đó cho phép một chuỗi bước tiến liên tiếp nhau
nhằm tạo nên sự tiến hóa ở mức độ tế bào (hóa học, monomer, oligomer, peptide,
protein, ARN, ribonucleoprotein, ADM) trong một cấu trúc nhỏ làm dễ dàng thay
đổi giữa những bước phát triển.
5. Sự tạo thành lipid có nghĩa là đã "đóng cửa"
các tế bào khỏi những tác nhân bất lợi, không cần thiết từ môi trường, cho đến
khi tất cả những chức năng cơ bản của tế bào được thiết lập.
Bước phát triển kế tiếp là sự tổng hợp các
màng lipid cuối cùng cho phép các cơ thể sống, cuối cùng cho phép các vật sống
di chuyển dời khỏi những hệ thống hang động nhỏ để bắt đầu cuộc sống của riêng
mình.
Một trong những vấn đề còn chưa giải quyết được đó
chính là "tính hướng". Ví dụ: tất cả những monomer đều có quay về một
phía (amino acid quay về phía tay trái, nucleid acid
quay về phía tay phải). Tính hướng rất cần thiết cho cấu trúc các ribozyme
(và ngay cả protein).
Nguồn gốc của tính hướng có lẽ chỉ đơn giản được giải
thích bằng tính không đối xứng của những phân tử đầu tiên theo ngẫu nhiên và
tất cả những phân tử sau đều giống như thế. Một số nghiên cứu năm 2003 của các
nhà khoa học tại Đại học Perdue cho thấy serine (một amino acid) có thể chính
là nguồn gốc của tính không đối xứng của các phân tử hữu cơ. Serine tạo thành
một liên kết mạnh các phân tử amino acid khác khiến chúng đều quay theo một
hướng khiến 8 phân tử amino acid tiếp theo sẽ cùng quay
trái hay cùng quay phải. Tuy nhiên, làm cách nào mà lại có nhiều phân tử
serine quay trái như thế thì vẫn còn là một điều bí ẩn: làm cách nào mà phân tử
tạo bởi sinh vật hầu hết chỉ quay về một phía trong khi hầu hết chúng là không
đối xứng.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét