Ngôi chùa nơi vua Minh Mạng chào đời
1Trong những ngày đầu thực dân Pháp đánh chiếm thành Gia Định, nếu như chùa Sắc tứ Kim Chương dỡ được bộ sườn gỗ cùng nhiều hiện vật di tản về miền Tây thì Sắc tứ Khải Tường tự không có may mắn đó. Song đây là ngôi chùa của hoàng gia, dẫu “nước mất chùa tan” cũng phải giữ lại, dù chỉ là một cái tên.
Khoảng
năm Mậu Thân (1788), chúa Nguyễn Phúc Ánh trở lại Gia Định có mượn nhà
Tống Quốc công phu nhân (tức Tống Phúc Khuông phu nhân) để tạm trú. Theo
lịch sử thì vào ngày 22 tháng 4 năm Tân Hợi (1791), Hoàng tử Nguyễn
Phúc Đảm (tức vua Minh Mạng) đã chào đời tại đây. Do đó, sau khi lên
ngôi, nhà vua trăn trở: “Cố cung - chỗ sinh ra Hoàng khảo Thế tổ Cao
hoàng đế ở tại xã Dương Xuân (Huế), nhưng vì do binh biến nên không còn
di tích. Sau khi đất nước thanh bình, trẫm tìm hiểu không ra. Mỗi khi
nghĩ đến thương cảm khôn nguôi”, rồi ra lệnh cho Bộ Lễ: “... Nhân đó
nghĩ đến chỗ ta ở chỗ nhà cũ của Tổng quốc công phu nhân tại ngoại thành
Gia Định, vậy sai quan địa phương tìm hỏi xem”.
Chân dung hòa thượng Chơn Thành - Ảnh: H.P |
Mãi
đến năm Minh Mạng thứ 13 (1832) tỉnh thần Gia Định mới tìm được địa
chỉ, vẽ bản đồ dâng lên. Vua dụ rằng “Lân Tân Lộc ở hai bên hữu thành
Gia Định, lúc Hoàng Thái hậu theo hầu Thế tổ Cao Hoàng đế ta đi tuần ở
phương nam - tức chạy loạn Tây Sơn - xa giá từng dừng ở đất này. Có điềm
“cầu vồng sa xuống bến Hoa”. Nhờ đất quý phát điềm lành, cho nên phải
xây dựng thắng tích lưu lại lâu dài cho đời sau”. Vua bèn lấy của kho
300 lạng bạc, giao cho quan địa phương, theo cách thức đã định của Bộ
Công, gọi thợ xây dựng.
Vì
kinh phí xây dựng hoàn toàn do quốc khố đài thọ nên công việc thổ mộc
nhanh chóng hoàn tất và ngôi chùa được danh hiệu chính thức là Quốc Ân
Khải Tường tự. Vua Minh Mạng lại chọn một cao tăng lúc bấy giờ là Tế Tín
hiệu Chánh Trực hòa thượng làm trụ trì (đệ tử của hòa thượng Liên Hoa
trụ trì Sắc tứ Từ Ân tự) và 18 tăng chúng lo quét dọn, kinh kệ hằng
ngày. Vua lại cấp cho hòa thượng Chánh Trực 20 mẫu ruộng miễn thuế để
chư tăng tự canh tác, lấy huê lợi thực hiện phật sự vua giao.
Đến
khoảng năm Quí Mão (1843) tức năm Thiệu Trị thứ ba thì Giáo thọ Như
Quang vận động các vị hoàng thân quốc thích, đồng bào phật tử ủng hộ
chỉnh trang quy mô tráng lệ hơn. Nhưng rồi cũng chỉ được mấy mươi năm
thì quân viễn chinh Pháp xua quân xâm lược. Vua Tự Đức cử Khâm sai đại
thần Nguyễn Tri Phương đắp đồn Chí Hòa (tài liệu Pháp ghi là Kỳ Hòa)
kháng cự. Giặc cũng chiếm một số chùa chiền đền miếu của ta ở ngoại
thành để làm “phòng tuyến các chùa”, trong đó có nhiều ngôi chùa nổi
tiếng như Sắc tứ Từ Ân, Quốc Ân Khải Tường, Sắc tứ Kim Chương. Trong đó,
Sắc tứ Từ Ân tự may mắn hơn vì không ở ngay tầm súng đạn nên chuyển
được khá nhiều tượng thờ, hoành phi, câu đối vào Cầu Tre để xây dựng
lại. Sắc tứ Kim Chương thì cũng kịp dỡ bộ giàn trò và nhiều hiện vật tản
cư về miền Tây rồi “thay tên đổi họ”. Còn Quốc Ân Khải Tường tự vì ở
sát thành Gia Định, bị giặc chiếm làm đồn lũy.
Chùa Khải Tường bên bờ rạch Ông Lữ - Ảnh: H.P |
Đêm
7.12.1860, nghĩa quân của Trương Định ở Gò Công kéo lên phục kích giết
chết tên đại úy trưởng đồn tên là Barbé ở gần đó nên giặc đặt tên là đồn
Barbé. Cũng trong giai đoạn này, vua Tự Đức có đặt một tấm bia đá ghi
công đức của Phạm Quốc công (Phạm Đăng Hưng) định chở về Gò Công dựng,
nhưng đến Vũng Tàu thì giặc Pháp phát hiện tịch thu. Chúng đục xóa toàn
bộ chữ trên bia rồi khắc tên đại úy Barbé làm mộ bia cho hắn ở khu đất
Thánh Tây. Tấm bia này hiện đã được đem về lăng Hoàng gia ở Gò Công.
Năm
1869, đồn Barbé tức khung sườn chùa Khải Tường bị phá hủy để xây dựng
các công trình của chế độ thuộc địa. Hiện vật quý nhất của Quốc Ân Khải
Tường tự là pho tượng Phật của vua Minh Mạng từ đây lưu lạc “Phật trên
bàn còn vương tám nạn”. Pho tượng bị chính quyền thực dân tịch thu giao
cho Hội Cổ học Ấn - Hoa. Địa chỉ dời đổi nhiều lần rồi lại giao cho bảo
tàng, trở thành tài sản quốc gia.
Chùa Khải Tường ở Cái Thia
Theo quyển Ngũ gia tông phái ký của
hòa thượng Hải Tịnh (bản khắc năm 1875) thì lúc Tây chiếm thành Gia
Định, hòa thượng Tế Tín Chánh Trực đang lánh nạn tại Sắc tứ Từ Ân và
đang bệnh nặng. Biết không thoát khỏi nên vào ngày 20 tháng 7 năm Giáp
Thìn (1864), hòa thượng cho triệu tập tăng chúng hai chùa và ủy thác
Quốc Ân Khải Tường tự cho hòa thượng Tiên Giác - Hải Tịnh, đồng thời
cũng ủy thác cho pháp sư Trí Thông (chùa Từ Ân) làm phó trụ trì, Giám
quản Quốc Ân Khải Tường tự. Rồi đại lão hòa thượng viên tịch, nước mất
nhà tan, tổ ấn bị chôn vùi, sự ủy thác chỉ còn là danh nghĩa.
Theo
dòng người di tản, một số đệ tử ngài cầu pháp với tổ đình Sắc tứ Kim
Chương, trong số này có Hòa thượng Chơn Thành, pháp danh Thanh Đặng
(1847-1919) đời thứ 41 phái Lâm tế. Lúc mất chùa có lẽ ngài còn là một
tiểu tăng. Không mang theo được những di vật của Quốc Ân Khải Tường tự,
khoảng năm 1862, ngài về tới đình Hội Thọ rồi sau đó dựng chùa Khải
Tường ở Cái Thia (ấp Mỹ Phú, xã Mỹ Đức Đông, H.Cái Bè, Tiền Giang hiện
nay) để hoài niệm. Chùa mới, Phật mới, chỉ có cái tên còn lưu giữ, nhưng
chẳng được an cư. Năm 1947, Tây đánh vô chợ Cái Thia, chùa Khải Tường
phải một lần nữa dời vô vàm rạch Ông Lữ để lánh nạn.
Nằm
khiêm nhường bên bờ rạch Ông Lữ, chùa Khải Tường ít người biết đến,
ngay cả trong sách Phật giáo Tiền Giang lược sử những ngôi chùa được
xuất bản gần đây thống kê 56 tự viện ở Cái Bè cũng không có tên Khải
Tường tự. Nhưng có lẽ dòng chảy văn hóa tiếp tục không hề đứt đoạn.
Tháng 9.2011, chùa Quốc Ân Khải Tường được phục dựng tại số 18 Đất Mới,
xã Long Phước, H.Long Thành, Đồng Nai. Lịch sử ngôi chùa được nhắc lại
song cũng còn nhiều điều chưa minh bạch.
Ngọc Phan - Hoàng Phương
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét