Mừng Xuân Ất Mùi 2015: Chúc Mừng Năm Mới – Happy New Year
The Hon. Thanh Hai Ngo SENATE SÉNAT L’hon Thanh Hai Ngo CANADA
Tết Greeting from Senator Thanh Hai Ngo
I am pleased to extend my warmest greetings to all those in Vancouver celebrating the 2015
Lunar New Year, as we bid farewell to the Year of the Horse and welcome the Year of the Goat!
Tết provides an opportunity for all Canadians to reflect on the tremendous contributions that
members of the Vietnamese community have made to this country’s rich and diverse heritage.
Since our arrival we have proudly raised freedom, democracy, human rights and the rule of law.
This year is an even bigger celebration as we mark the 40th anniversary of the fall of the free and
democratic Vietnam; we thank Canada for opening its arms to us. As my bill S219 emphasis our
Journey to Freedom here in Canada is a tremendous honour as we are all now part of the
Canadian fabric, where freedom and democracy prevails.
I thank the Vietnamese Canadian Community in Greater Vancouver Societyfor your important
work in organizing this jubilant celebration and once again offer everyone my best wishes for
good luck, happiness and prosperity in the coming year.
Chúc mừng năm mới!
Sincerely,
The Honourable Thanh Hai Ngo
Senator
Tết Greeting from Senator Thanh Hai Ngo
I am pleased to extend my warmest greetings to all those in Vancouver celebrating the 2015
Lunar New Year, as we bid farewell to the Year of the Horse and welcome the Year of the Goat!
Tết provides an opportunity for all Canadians to reflect on the tremendous contributions that
members of the Vietnamese community have made to this country’s rich and diverse heritage.
Since our arrival we have proudly raised freedom, democracy, human rights and the rule of law.
This year is an even bigger celebration as we mark the 40th anniversary of the fall of the free and
democratic Vietnam; we thank Canada for opening its arms to us. As my bill S219 emphasis our
Journey to Freedom here in Canada is a tremendous honour as we are all now part of the
Canadian fabric, where freedom and democracy prevails.
I thank the Vietnamese Canadian Community in Greater Vancouver Societyfor your important
work in organizing this jubilant celebration and once again offer everyone my best wishes for
good luck, happiness and prosperity in the coming year.
Chúc mừng năm mới!
Sincerely,
The Honourable Thanh Hai Ngo
Senator
Kính chúc Quý Niên Trưởng, Quý Anh, Quý Chị, Quý Thân Hữu cùng Quý Quyến Năm Ất Mùi Sức Khoẻ, Hạnh Phúc, Thân Tâm An lạc.
Vui Xuân thân mời quý hữu thưởng lãm bộ tranh dân gian Đông Hồ
Bức tranh “Bịt mắt bắt dê”
Bức Chăn trâu thổi sáo
Bức Chăn trâu thả diều
Bức Đám cưới chuột
Bức Thầy đồ cóc
Bức Hứng dừa
Bức Đánh ghen
Bức Vinh hoa
Bức Phú quý
Bức Đàn lợn âm dương
Bức Đàn gà
Bức Đấu vật
Bức Chăn trâu đọc sách
Bức Chọi chim
Bức Chọi cá
Bức Nông dân nghỉ ngơi
Bức Vinh quy bái tổ
Bức Nhân nghĩa
Bức Lễ trí
Bức Đánh đu và bắt chạch trong chum
Bức Bịt mắt bắt dê
và cùng thưởng thức Nhạc Xuân
Xuân Ất Mùi 2015: Chúc Mừng Năm Mới – Happy New Year
Lê Thiên (Danlambao) -
Năm Ất Mùi 2015 đang đến. Người Việt trong nước cũng như hải ngoại rộn
rịp chuẩn bị đón chào Xuân Con Dê. Năm nào cũng vậy, cứ mỗi lần vào Tết
Nguyên Đán, báo chí Việt Nam khắp nơi lại đưa ra hình ảnh một trong 12
Con Giáp (Chuột, Trâu, Cọp, Mẹo, Rồng, Rắn, Ngựa, Dê, Khỉ, Gà, Chó, Heo – Tý, Sửu, Dần, Mẹo, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi) kể nhiều chuyện liên quan đến con Giáp liên quan.
Năm nay, năm Ất Mùi, mừng Tết Con Dê, thiên hạ lại ồ ạt múa bút, tán chuyện CON DÊ. Con Dê trong lịch sử. Con Dê trong ẩm thực. Con Dê trong đời sống. Và cả con Dê trong tiếu lâm, trong câu đối… Rồi thì xem tử vi, tính tuổi Mùi – tuổi Con Dê làm ăn ra sao, vận mạnh đi về đâu? Thậm chí có người chịu khó lục lọi cả Kinh Thánh để tìm cho được Con Dê!
Một
nét văn hóa Xuân đặc thù có lâu đời tại Việt Nam là sáng tác câu đối
Tết. Nhưng dường như ngày nay tại Việt Nam, hình ảnh các cụ đồ mài miệt
viết câu đối trên mấy vỉa phố đông người có phần thưa thớt hơn nhiều so
với thời xa xưa. Ở hải ngoại, hình ảnh ấy càng hiếm hoi hơn (hầu như
không còn thấy diễn ra nữa). Tuy nhiên, trên báo chí, câu đối Tết vẫn
không thiếu.
“MÙI mẽ chi mà vểnh sợi râu DÊ”?
Tại Việt Nam có ông Hà Sĩ Phu chuyên sáng tác nhiều câu đối Tết đặc sắc, trong đó tác giả “khéo
léo vận dụng các đặc trưng của ngôn ngữ như từ láy, từ đồng âm dị nghĩa
kết hợp với tên mười hai con giáp, tạo một món quà xuân mang phong vị
châm biếm, hài hước sâu sắc” tặng độc giả khắp nơi. Chẳng hạn để kết thúc năm CON NGỰA chuyển sang năm CON DÊ, Hà Sĩ Phu đã ra câu đối:
Hết khoe MÃ một thời,
NGỌ ngoạy lắm cũng ra vành móng NGỰA!
Còn xuất DƯƠNG mấy độ,
MÙI mẽ chi mà vểnh sợi râu DÊ?
Mã, ngựa, ngọ (đều là NGỌ), rồi dương, dê, mùi (đều
là MÙI), và cả móng ngựa, râu dê... đều được triệt để khai thác ngữ
nghĩa. Chỉ với hai mươi sáu chữ trong 4 câu mà tác giả “tạo được đôi liễn vừa thâm thúy, vừa hoạt kê, làm cho không khí tết như ấm lên cho dù thiếu hẳn tràng pháo truyền thống” và dù nó tiềm ẩn chút hương vị đắng đót.
Hai
vế đối trên rõ ràng gói gọn cái kết thúc dở khóc dở cười đầy mai mỉa
của bọn quan lại VN tham nhũng hống hánh tác oai tác quái cùng đám “đại
gia” dựa vào thế lực đảng quan làm giàu bất chính và phô trương sự giàu
có của mình trên mồ hôi, nước mắt và máu của người dân thấp cổ bé miệng:
Cả quan chức lẫn “đại gia” dựa vào nhau chỉ cốt vắt máu dân trên nguyên
tắc “hai bên cùng có lợi”. Họ có biết đâu rằng “NGỌ ngoạy lắm cũng ra vành móng NGỰA! MÙI mẽ chi mà vểnh sợi râu DÊ”? NGỌ
ngoạy – Móng NGỰA! Rồi MÙI mẽ - Râu DÊ! Một lối chơi chữ tượng thanh,
tượng hình tuyệt diệu kết thành lối ví von đầy mai mỉa khiến cả lũ quan
lại gian ác lẫn bọn trọc phú bất lương đều đau hơn hoạn! Ôi! “Rằng hay
thì thật là hay, Nghe ra ngậm đắng nuốt cay thế nào!”
Ngoài
những nét vui Xuân, thưởng Xuân nhộn nhịp nêu trên, những ngày đầu Xuân
còn sáng rực hoa Xuân, nào đào, nào mai, nào cúc cùng hằng hà các loài
hoa xuân muôn màu bên cạnh những mâm ngũ quả hấp dẫn. Từ đó, tiếng cười,
tiếng hát càng làm nức lòng người thưởng Xuân! Vô số những khúc hát
mừng Xuân rộn rã vang lên, thấm sâu vào lòng người mà những bài Đón Xuân và Ly Rượu Mừngcủa Phạm Đình Chương là những nhạc phẩm kiệt tác tiêu biểu, đặc biệt trong những ngày đầu Xuân Âm Lịch.
Về bài Happy New Year.
Riêng mỗi dịp đầu năm dương lịch, người ta ai cũng thấy lòng mình rộn lên niềm phấn chấn khi nghe đâu đó vang lên bài ca Happy New Year của ban nhạc ABBA. Bài Happy New Year không
ngời nhanh chóng trở thành bài ca bất hủ, chẳng phải chỉ vào dịp đầu
năm dương lịch, mà còn thâm nhập vào cả Tết Âm Lịch, khiến nó nhanh
chóng trở thành bài ca Mừng Xuân thấm vào lòng người dân Việt, để rồi nó
không thể thiếu trong các Tết Âm Lịch hòa chung với các bài hát Xuân
Việt Nam khác, cả ở hải ngoại lẫn trong nước.
Trong bài báo ngày áp Tết Ất Mùi 2015 (18/02/2015) dưới nhan đề “5 bài hát về Tết được giới trẻ yêu thích nhất”, báo Kiến Thức (từ Việt Nam) nhìn nhận bàiHappy New Year của ban ABBA được xếp hàng đầu (số 1) trong 5 bài hát về Tết được giới trẻ yêu thích nhất. (4 bài sau là các bài hát Tết của Việt Nam).
Tờ Kiến Thức nhìn nhận: “Ca
khúc ‘bất hủ’ của nhóm nhạc Thụy Điển - ABBA không chỉ được người dân,
giới trẻ Việt mà gần như tất cả mọi người trên thế giới đều biết đến. Dù
là một ca khúc có phần lời rất buồn nhưng ‘Happy New Year’ vẫn là ca khúc không thiếu không nghe trong dịp Tết đến, xuân về.”
Tác giả bài báo nhận xét: “Lắng
nghe ‘Happy New Year’ của ABBA là thấy Tết, dù thực chất là một bài hát
buồn nhưng phần giai điệu của ‘siêu phẩm’ này vẫn khiến người người cảm
nhận được không khí rộn ràng của năm mới. Dễ hiểu vì đây lại là ca khúc
được nghe và yêu thích nhất dịp Tết”.
Chúng tôi không nghĩ bài Happy New Year là “một bài hát buồn” như Báo Kiến Thức nhận xét. Nếu buồn thì làm sao “giai điệu của ‘siêu phẩm’ này vẫn khiến người người cảm nhận được không khí rộn ràng của năm mới”?
Nội dung, ý nghĩa và giai điệu của bài Happy New Year.
Happy New Year của ban nhạc ABBA có một điệp khúc đơn sơ nhưng thấm thía:
Happy new year
Happy new year
May we all have a vision now and then
Of a world where every neighbor is a friend
Happy new year
Happy new year
May we all have our hopes, our will to try
If we don't we might as well lay down and die
You and I.
Chúc mừng năm mới
Chúc mừng năm mới
Chúc cho chúng ta có một viễn ảnh
Về một thế giới mà hàng xóm là thân hữu
Chúc mừng năm mới
Chúc mừng năm mới
Chúc tất cả chúng ta có nhiều hi vọng, ý chí nỗ lực
Nếu chúng ta không thế thì sẽ gục ngã và diệt vong
Anh và em.
Giai
điệu bài hát làm rung động con tim mỗi người chúng ta. Ý nghĩa thâm
thúy của Lời Chúc Tân Xuân càng làm cho cõi lòng chúng ta thêm rạo rực,
háo hức, để chúng ta sẵn sàng mở rộng vòng tay nhân ái với tha nhân. Lời
cầu chúc nói lên nỗi ước mơ hơn hẳn một giấc mơ (dream). Chính xác nó là một viễn ảnh (vision), kêu gọi cùng xây dựng một thế giới hòa bình hạnh phúc trong đó người lân cận là bạn hữu.
Câu chúc trong bài ca phản ánh phần nào Lời Chúa Giêsu trong Tin Mừng Thánh Luca “yêu mến người lân cận như chính mình” (Lc.10, 27). Lời ca trong Happy New Year chỉ mong “người lân cận” được coi là “bạn hữu”, chứ chưa đạt tới mức coi nhau như “chính mình” theo lời Chúa truyền dạy. Dù sao ít ra, nếu con người trên trái đất này không đối xử với nhau được như với chính mình thì cũng phải coi nhau là bằng hữu thì thế giới mới mong thoát khỏi hận thù, ganh ghét, đố kỵ, chia rẽ, giết hại lẫn nhau.
Vì vậy, lời chúc Happy New Year – Chúc Mừng Năm Mới hay Năm Mới Hạnh Phúc được lặp đi lặp lại trong bài ca là một lời chúc chân thật và cũng rất thực tế, lời chúc mang cho con người âm hưởng của niềm hy vọng, mà nếu con người không “sẵn lòng cố gắng” đón nhận, e không tránh khỏi “gục ngã và diệt vong”.(1)
Đây
không phải là một biểu thị của tâm lý bi quan, mà chính là một lời nhắc
nhớ mỗi dịp đầu năm rằng, nếu con người mỗi năm không vượt qua chính
mình để xích lại gần gũi hơn với người lân cận, để coi nhau là bạn thay
vì là đối xử với nhau như thù địch, là kẻ xa lạ, thì con người sẽ gục ngã và thế giới sẽ rơi vào họa diệt vong.
Năm mới, một cơ hội cảnh tỉnh, một dịp để lên tiếng báo động nếu con người cầu chúc cho nhau “Năm Mới hạnh phúc” mà không thật lòng mang niềm hạnh phúc bền lâu đến cho nhau, thì lời cầu chúc chỉ là những lời môi miệng dối trá mà thôi.
Báo Cộng Sản Việt Nam xuyên tạc.
Ngoài
nhận xét của báo Kiến Thức mới ngày 18/02/2015 đã nêu trên, chúng ta
còn nhớ tới lời phê phán của 2 báo khác thuộc luồng báo đảng trong nước.
Đó báo Giáo Dục Việt Nam (28/01/2014) và tờ VN Express ngày 10/02/2013.
+ Báo Giáo Dục Việt Nam
Happy New Year! Một
lời chúc Năm Mới đầy tình người như vậy, thế nhưng có người lại cho đó
là lời chúc đầy bi quan. Cụ thể, năm ngoái, ngày 28/01/14, tờGiáo Dục Việt Nam đã có bài viết dưới nhan đề “Nếu dịch nghĩa toàn bộ ca khúc, sẽ không thấy ‘bóng dáng’ của năm mới” để “cảnh giác” giới trẻ trong nước về bàiChúc Mừng Năm Mới – Happy New Year của
nhóm ABBA, dù bài này tồn tại và lưu truyền khắp hoàn vũ đã trên dưới
40 năm qua, từ trước năm 1979 khi mà bài ca được “lọt” vào trong nước
Việt Nam, lưu hành chui trong giới trẻ, qua mặt sự kiểm soát và kiểm
duyệt nghiêm nhặt của Ban Tư tưởng đảng.
Mặc dầu nhìn nhận "Happy New Year từ lâu đã trở thành ca khúc bất hủ và trở thành bài hát được người Việt Nam nghe nhiều nhất mỗi dịp năm mới”, tác giả bài báo đã viện dẫn ý kiến của ai đó (vô danh) “cho rằng nếu dịch nghĩa toàn bộ ca khúc, sẽ không thấy ‘bóng dáng’ của năm mới. Có chăng, nó chỉ là những lời tự an ủi, động viên tạm bợ rằng những điều tồi tệ có lẽ sẽ qua để nhường chỗ cho mọi thứ tốt đẹp.”
Một lối diễn dịch ấu trĩ đầy thiên kiến và hoàn toàn vô căn cứ! Đâu có lời lẽ nào trong ca khúc Happy New Year cho thấy đó là “những lời tự an ủi”, hay “động viên tạm bợ”. Toàn là những lời chúc chân thành – cầu mong rằng sau niềm vui mừng đầu Năm Mới, con người đừng quên trao cho nhau lời chúc “Hạnh phúc”,
đừng để lời chúc ấy mất ý nghĩa, mất sức sống vì hận thù, chia rẽ và
chiến tranh như đã từng xảy ra trong quá khứ: Thập niên 1970 trở về
trước, Miền Nam Việt Nam gánh chịu một cuộc chiến cốt nhục tương tàn do
CS Miền Bắc phát động, theo chỉ thị và với vũ khí của Cộng sản quốc tế,
cụ thể là chỉ thị của Stalin và Mao Trạch Đông cùng súng ống, đạn dược
và đủ thứ chiến cụ từ Liên Xô và Trung Cộng!?
Còn bảo rằng không thấy ‘bóng dáng’ của năm mới trong
bài Happy New Year thì đó là nói ngoa, nói bừa, hoặc là nói do dốt nát
ấy thôi: Bóng dáng của năm mới nổi bật rõ ràng trong tiếng nhạc, tiếng
hát và lời ca, giai điệu đến nỗi mỗi khi bài hát vừa cất lên là trái tim
con người cũng rộn ràng mừng vui, ngập tràn nguồn hứng khởi Happy New Year. Nếu không vậy thì thử hỏi cái gì làm cho "Happy New Year từ lâu đã trở thành ca khúc bất hủ và trở thành bài hát được người Việt Nam nghe nhiều nhất mỗi dịp năm mới”, như chính tác giả bài báo thừa nhận???
+ Báo VN Express.
Trước đó một năm, vào ngày 10/02/2013, trên tờ VN Express cũng đã xuất hiện bài viết của Hoàng Trọng Thảo dưới nhan đề “'Happy New Year' (ABBA) là bài hát đen đủi ngày Tết”. Tác giả phán chắc nịch: “Giai điệu thì cũng tươi vui đấy, nhưng thật ra lời bài hát thì khá buồn, đặc biệt có những ca từ mang tính xúi quẩy, đen đủi cho năm mới, ví dụ như "tôi và bạn cảm thấy thất bại và buồn chán" (me and you, feeling lost and feeling blue), hay "bạn và tôi, chúng ta có thể nằm xuống và chết" (we might as well lay down and die You and I). Đây là lối trích dẫn gian trá hết sức vô liêm sỉ và ngu xuẩn.
Hãy đặt câu ca vào đúng ngữ cảnh (mạch văn) của nó, sẽ hiểu được ý lời ca không phải như Hoàng Trọng Thảo diễn dịch:
Here we are, me and you
Feeling lost and feeling blue
It's the end of the party
…
Now's the time for us to say...
Anh và em
Chúng ta ngồi đây,
Cảm thấy lạc lõng và buồn bã
Khi bữa tiệc đã tàn
Nhưng đây là thời khắc để chúng ta nói...
Chúng tôi lặp lại: “Nhưng đây là thời khắc để chúng ta nói...” – Nói gì nếu không phải nói lại lời chúc “Happy new year/Happy new year…. You and I. Năm mới hạnh phúc Năm mới hạnh phúc... Anh và em.” Rõ ràng, lời ca có ý khích lệ chúng ta dù “chúng ta ngồi đây, cảm thấy lạc lõng và buồn bã” vì
thế giới vẫn chưa hết hận thù, chưa hết giết nhau, nhưng đây vẫn là
thời khắc tốt đẹp nhất, thuận lợi nhất để chúng ta cùng hát lên lời chúc
lẫn nhau thân tình và vui tươi: “HappyNew Year, Happy New Year….” Năm mới hạnh phúc! Năm mới hạnh phúc!
Hãy
thôi chia rẽ, thôi hận thù, thôi giết hại nhau! Cầu chúc và ước vọng!
Một ước vọng hết sức chính đáng và cấp bách, chứ đâu là một tỏ lộ bi
quan!
Gợi nhắc lời chúc Merry Christmas (Mừng Lễ Giáng Sinh).
Một
tuần lễ trước ngày đầu Năm Mới, Giáo Hội Công Giáo Hoàn Vũ (và cả thế
giới không có đức tin Kitô giáo) hoan hỉ mừng Lễ Giáng Sinh 2014. Đâu
đâu cũng vang lên những ca khúc Mừng “Merry Christmas”. Tiếng đàn hòa
chung tiếng hát, tiếng chuông rộn rã. Ngay tại Vatican, Thủ đô của Giáo
Hội, bầu khí Lễ Chúa Giáng Sinh càng tưng bừng.
Vậy
mà, trong Thông Điệp mừng Chúa Giáng trần, thông điệp Urbi et Orbi
(Thông điệp cho Thành phố và cho Thế Giới) vừa rồi (25/12/2014), trong
khi “Chúc mừng Giáng sinh cho mọi người”, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã không ngần ngại kêu lên: “Thế giới có quá nhiều nước mắt trong mùa Giáng Sinh này, cùng với những giọt nước mắt của Chúa Giêsu Hài Đồng.”
Rồi ngài “Cầu
xin quyền năng của Chúa Kitô, mang đến tự do và sự phục vụ lẫn nhau,
được cảm nhận trong nhiều con tim đang bị ảnh hưởng bởi chiến tranh,
khủng bố và chế độ nô lệ.” ĐTC cũng cầu “xin
cho sự hiền lành trong quyền năng chí thánh này lấy đi sự chai cứng của
con tim rất nhiều người nam nữ đang đắm mình trong những sự thế gian và
trong sự thờ ơ.” Cuối cùng ĐTC tiếp tục tha thiết“cầu
xin cho quyền năng cứu độ của Chúa biến vũ khí thành lưỡi cày, biến hủy
diệt thành sáng tạo, biến lòng thù hận thành tình yêu và sự dịu dàng.” Để rồi chúng ta có thể kêu lên trong hân hoan “Chính mắt con đã được thấy ơn cứu độ của Chúa.”
Ai bảo đó là bi quan? Là đen đủi? Là xúi quẩy? Không! Đó là lời mời gọi khẩn thiết gởi đến tất cả những người thiện tâm!
Là cộng sản, làm sao có được thiện tâm?
Người
cộng sản chỉ có thể trở thành người thiện tâm khi nào họ đủ can đảm từ
bỏ cái đảng quái ác của họ mà thôi! Bao lâu chưa là người thiện tâm, bấy
lâu đám chóp bu cầm quyền CSVN còn ác tâm với dân mình, với những người
thiện tâm đấu tranh cho quyền con người, cho chính nghĩa dân tộc, cho
chủ quyền quốc gia, cho tự do dân chủ.
Hoàng Trọng Thảo có đọc kỹ và nghe rõ không lời ca trong bài Happy New Yearrằng: “May we all have our hopes,
ourwill to try/ If we don't we might as well lay down and die/ You and I
- Chúc tất cả chúng ta có nhiều hi vọng, ý chí nỗ lực/Nếu chúng ta
không thế thì sẽ gục ngã và diệt vong/Anh và em.” Tại sao lại chơi
trò lưu manh cắt xén đi những vế chính, từ chính của lời ca (chúng tôi
in đậm trên đây) để làm lệch đi ý nghĩa sâu sắc của câu ca? Đích thị là
một hành vi gian trá bộc lộ thủ thuật tuyên truyền xuyên tạc cố hữu của
cái gọi là “phẩm chất đạo đức cách mạng” nơi con người Cộng sản! Chỉ với
mục đích lôi giới trẻ Việt Nam ra khỏi bầu khí tưng bừng Happy New
Year, bởi lẽ Happy New Year là một nhạc phẩm ngoại lai, nó không là
thiên tài của ta, nó không ngợi ca “ơn bác, ơn đảng” và nhất là nó không
“Mừng đảng” trước rồi hãy “Mừng Xuân” sau như đảng dạy!
Xuân Ất Mùi 2015, hòa chung niềm vui xuân cùng bà con đồng hương xa quê, chúng tôi xin nói lên đây lời “Happy NewYear – Chúc Mừng Năm Mới” cho mọi người, mọi nhà và cùng đồng thanh vang lên lời ca Happy New Year, cầu xin Thượng Đế ban hạnh phúc cho mọi người, mọi nhà.
Tại hải ngoại, chúng ta đang sống và trải nghiệm “sự thịnh vượng”
của thế giới tự do, chúng ta không quên cầu chúc bà con chúng ta trong
nước sớm thoát khỏi nanh vuốt của “lũ si ngốc” tự cho mình là đỉnh cao,
thỏa mãn với những bước đi chệch choạc và thụt lùi của chúng trước sự
thăng hoa của nền văn minh nhân loại.
Chúng
ta cầu nguyện cho mọi người cùng hưởng một Năm Mới Hạnh Phúc và cùng bà
con trong nước tiếp tục mạnh mẽ kiên trì đấu tranh cho một Việt Nam văn
minh, tự do, dân chủ và phú cường. Ở đó nhân phẩm, nhân quyền và công
bằng xã hội phải được tôn trọng một cách triệt để! Từ đó, bài ca Happy New Year sẽ thật sự đầy ý nghĩa và làm cho cõi lòng người Việt Nam trên quê hương thật sự hạnh phúc./.
(Ngày áp Tết Ất Mùi)
Chào Nguyên Xuân
Xin chào nhau giữa con đường
Mùa xuân phía trước miên trường phía sau
Tóc xanh dù có phai màu
Thì cây xanh vẫn cùng nhau hẹn rằng
Xin chào nhau giữa lúc này
Có ngàn năm đứng ngó cây cối và
Có trời mây xuống lân la
Xin chào nhau giữa bàn tay
Có năm ngón nhỏ phơi bày ngón con
Thưa rằng những ngón thon thon
Chào nhau một bận sẽ còn nhớ nhau
Xin chào nhau giữa làn môi
Có hồng tàn lệ khóc đời chửa cam
Thưa rằng bạc mệnh xin kham
Giờ vui bất tuyệt xin làm cỏ cây
Xin chào nhau giữa bụi đầy
Nhìn xa có bóng áng mây nghiêng đầu
Hỏi rằng: người ở quê đâu?
Thưa rằng: tôi ở rất lâu quê nhà
Hỏi rằng: từ bước chân ra
Vì sao thấy gió đàn xa dặm dài?
Thưa rằng: nói nữa là sai
Mùa xuân đang đợi bước ai đi vào
Hỏi rằng: đất trích chiêm bao
Sá gì ngẫu nhĩ mà chào đón nhau
Thưa rằng: ly biệt mai sau
Là trùng ngộ giữa hương màu Nguyên Xuân.
Người trồng hoa, bán hoa khóc ròng vì hoa tết ế không người mua | ||||||||||||||||||||||||||
Tin và ảnh: Thành Hoa | ||||||||||||||||||||||||||
|
NĂM MÙI NÓI CHUYỆN DÊ
PHẠM ĐÌNH LÂN, F.A.B.I.
THÂN THẾ VÀ THÂN THUỘC DƯƠNG TỘC
Năm 2015 là năm Ất Mùi tức là năm con dê. Tên Hán- Việt của dê là Dương. Tên khoa học của dê là Capra hircus hay dài dòng hơn là Capra aegagrus hircus thuộc gia đình Bovidae như trâu bò. Dê là loài động vật có vú, có xương sống, có máu đỏ, sinh con.
Dê
có vóc dáng của nai và chó. Khác với chó, dê có sừng. Sừng dê ngắn.
Sừng nai dài và có nhiều nhánh. Dê đực và dê cái đều có râu và có móng
đặc. Dê có mặt giống thỏ. Cả hai loại thú này đều ăn cỏ, lá cây, các
loại lá có mùi nồng như lá bù xít Ageratum conyzoides. Nhiều nơi ở Việt Nam gọi bù xít là hoa cứt lợn. Người Anh gọi là goat’s weed có lẽ vì dê thích ăn loại lá có mùi hôi nồng này. Dê con ăn cả lá dứa, lá bã đậu và cây xương rồng. Lá so đũa Sesbania grandiflora là
thức ăn ưa thích nhất của dương tộc. Dê đực già có râu và có sừng.
Thỏ chỉ có tai dài. Dê và thỏ đều sợ ẩm. Phân dê và phân thỏ đều cứng
và không có công dụng lớn trong đời sống nông nghiệp ở Việt Nam. Ở Việt
Nam chỉ có cộng đồng người Ấn hay người Chàm nuôi dê để ăn thịt và uống
sữa mà thôi.
Dê
được các dân tộc Á Châu và đông Địa Trung Hải thuần hóa cách đây 9,000
năm. Ngày nay dê được nuôi khắp thế giới. Dê có thể sống ở vùng khí
hậu khô hạn, miền núi và miền khí hậu ôn đới, lạnh hay bán hàn đới như
Alaska, tây bắc Canada và Hoa Kỳ. Có 600 giống dê khác nhau trên thế
giới.
Ở
Trung Đông và Hy Lạp có nhiều loại dê hoang. Loại dê núi lông trắng,
thẳng và dày ở Alaska, tây bắc Canada và tây bắc Hoa Kỳ là loại dê
hoang. Loài dê này có thể nhảy từ vách núi này sang vách núi kia một
cách dễ dàng. Điều này cho thấy chân của dương tộc rất khỏe nên có thể
leo cây, leo núi và nhảy từ mõm đá này sang mõm đá khác dễ dàng.
Giống dê nhỏ nhất là dê lùn Pakistan cao lối 46 cm (1.5 feet) và cân nặng 09 ki-lô (20 pounds). Trái lại dê Ibex Capra aegagrus sống
hoang dã trong miền núi ở Trung Á, Nubia, Ai Cập, núi Alps, Tây Bá Lợi Á
cao đến 1.07 m (3.45 feet) và cân nặng đến 135 ki-lô (300 pounds).
Về
màu sắc dê có lông màu đen, trắng, xám, đỏ và hung đỏ. Dê đực và cái
đều có râu. Dê đực già có sừng cứng, dài và nhiều râu. Loại dê Tahr
trên dãy Hi Mã Lạp Sơn Hemitragus jemlahicus, dê núi Oreamnos americanus ở tây bắc Canada và Hoa Kỳ, dê Markhor Capri falconeri có
lông dài và dày để chống lạnh. Dê từ 01 tuổi đến 1.5 tuổi rưỡi có thể
bắt cặp. Dê mang thai trong 145- 150 ngày thì sinh con. Mỗi con dê cái
sinh từ 02 đến 03 con. Dê mới sinh có thể đứng dậy vài phút sau khi
sinh. Dê con lớn rất nhanh. Sau khi sinh hai ngày dê con vừa bú sữa mẹ
vừa tập ăn lá cây và tập leo, nhảy trên các mõm đá. Dê mẹ sinh con sau
05 tháng thì có thể bắt cặp để có những lứa dê con khác.
Người
ta nuôi dê Saanen, Toggenberg, Alpine để lấy sữa. Một con dê Saanen ở
Thụy Sĩ có thể cho 900 lít sữa mỗi năm. Dê Nigeria cung cấp da. Dê
Angora cho lông trắng mịn rất đẹp dùng để dệt vải mohair nổi tiếng. Dê La Mancha và dê Tây Ban Nha Capra pyrenaica (tiếng Tây Ban Nha: cabra montes) cho nhiều thịt, sữa, lông và da.
Thân thuộc gần của dê là trừu mang tên khoa học Ovis aries.
Về hình dáng và trọng lượng dê và trừu gần như nhau. Tuổi bắt cặp (1.5
tuổi) và thời gian mang thai của trừu và dê cũng ngang nhau: 145- 150
ngày. Trừu có nhiều lông hơn dê. Những loại dê vùng khí hậu ôn, hàn
đới cũng có lông dày. Lông dê thẳng; lông trừu dày và xoăn lại. Đuôi
dê và trừu đều ngắn. Đuôi dê dỉnh lên; đuôi trừu cụp xuống. Dê năng
động, leo trèo khi ăn lá cây trên cao. Trừu có vẻ chậm chạp và hiền hòa
hơn. Tuy dê và trừu là thân thuộc rất gần, sự pha chủng giữa dê và trừu
đến nay vẫn chưa được kiểm chứng rõ ràng ngoại trừ một trường hợp thành
công khi chủng giống giữa một con dê đực và một con trừu cái. Nhưng đây
là một trường hợp thành công đơn lẻ.
Sơn dương (chamois) mang tên khoa học Rubicapra rubicapra là
thân thuộc của dê ở miền núi. Móng chân sơn dương rất đặc biệt nên khi
phóng nhảy trên vách núi đá không bị trợt hay té ngã. Sơn dương được
tìm thấy nhiều trên bán đảo Balkans, dãy núi Caucasus, Altai, Alps. Ở
miền Nghệ An và Hà Tĩnh có một loại sơn dương được liệt vào loài sơn
dương hiếm quí vì ít thấy trên thế giới.
Linh dương (antelope)
là thân thuộc xa của dê có vóc dáng to lớn, sừng dài và uốn khúc trong
khuôn mặt dê, trừu và thân xác khá to của bò con. Có những con linh
dương Eland cân nặng đến 1,000 ki- lô! Địa bàn sống của linh dương là
các thảo dã Phi Châu. Các loài linh dương thường thấy là linh dương
Kudu Tragelaphus strepsiceros, linh dương Eland Taurotragus oryx rất nặng cân, linh dương NilgaBoselaphus tragocamelus, linh dương Duiker Sylvicapra grimmia ăn
lá cây, trái cây, chuột, ếch, nhái và có thể nhịn khát trong một thời
gian dài. Khi trời mưa chúng không cần uống nước. Linh dương Duiker
cái to lớn và nặng cân hơn linh dương đực. Linh dương Statunga Tragelaphus spekei thường được tìm thấy ở các đầm lầy.
Linh dương Eland
DƯƠNG TỘC TRONG XÃ HỘI LOÀI NGƯỜI
Loài
người biết thuần hóa dương tộc từ 9,000 năm trước. Dê trừu được nuôi
thành đàn để lấy thịt, sữa, lông và da. Trên thế giới hiện nay có gần
01 tỷ con dê và trên 01 tỷ con trừu. Trung Hoa có 150 triệu con dê; Ấn
Độ: 125 triệu con. Á Châu là nơi có nhiều dê nhất thế giới với 512
triệu con; Phi Châu: 295 triệu; Úc Đại Lợi: 3.5 triệu; Âu Châu: 16 triệu
và Mỹ Châu: 38 triệu. Trung Hoa nuôi nhiều trừu nhất thế giới với 136
triệu con; Úc Đại Lợi: 80 triệu; Ấn Độ: 65 triệu; Iran: 53 triệu; Tân
Tây Lan: 34 triệu; Anh: 33 triệu.
Người
Ấn Độ dùng thịt dê để nấu cà ri. Người Trung Hoa cho rằng dương nhục
bổ dương nên trân quí món dương nhục hầm thuốc Bắc. Người Hy Lạp, Ý Đại
Lợi, các dân tộc Trung Á, Phi Châu, Châu Mỹ La Tinh thích ăn thịt dê,
huyết dê, gan dê và ngoại thận của dê.
Da dê dùng làm giày, bóp, túi xách. Ngày xưa ở Âu Châu người ta dùng da dê làm bình chứa rượu nho.
Lông dê dùng để sản xuất vải Mohair.
Sữa dê dùng để uống, làm yogurt, làm phô- mai (cheese).
Sữa dê bổ và dễ tiêu hóa hơn sữa bò. Vùng Brie thuộc hạt Seine et
Marne ở Pháp nổi tiếng về việc sản xuất phô- mai từ sữa bò và sữa dê.
Phô- mai làm từ sữa dê gọi là chèvre (con
dê). Vùng Poitou và thung lũng sông Loire nổi tiếng về phô- mai sữa
dê. Truyền thống này có từ thế kỷ VIII khi đạo quân Hồi Giáo Moors đánh
chiếm Tây Ban Nha và tiến về Tây Nam nước Pháp nên việc chăn nuôi dê
phát triển với sự hiện diện của đạo quân Hồi này. Người Ý gọi phô- mai
sữa dê là caprino.
Chân của loài dê rất mạnh nên người ta dùng xương dê kết hợp cùng xương cọp (hổ cốt), xương trăn, xương khỉ để nấu cao.
Người
Ấn Độ, các dân tộc du mục ở Trung Á ăn nhiều thịt dê. Các nước Ả Rập
theo đạo Hồi ở Trung Đông ăn nhiều thịt trừu hơn thịt dê. Các món ăn
thịt trừu được các dân tộc sống quanh biển Địa Trung Hải (người Hy Lạp,
Ý, Pháp, Tây Ban Nha và các dân Ả Rập theo đạo Hồi) ưa thích. Sữa trừu
được dùng như sữa dê. Nó dùng để uống, làm yogurt,
làm phô- mai Roquefort ở Pháp, Manchego (Tây Ban Nha), Pecorino romano
(Ý) v.v. Úc Đại Lợi nuôi nhiều trừu để khai thác lông. Trừu nuôi được
06 tuổi mới bắt đầu cắt lông dùng trong kỹ nghệ dệt len, sản xuất áo
ấm. Thịt trừu cũng được ưa thích tại đây.
Có
lối 800 loại trừu khác nhau trên thế giới. Các giống trừu nổi tiếng là
trừu Merinos, Rambouillet, Lincoln, Leicester, Costwold, Romney,
Suffolk, Hampshire. Dê và trừu mang nhiều lợi ích kinh tế cho loài
người. Dê tương đối khỏe mạnh hơn trừu. Về lợi ích kinh tế trừu có vẻ
quan trọng hơn dê vì cho nhiều thịt, sữa nhất là lông. Vào thế kỷ
XVII, XVIII Tây Ban Nha nổi tiếng với trừu Merinos. Họ cấm xuất cảng
loại trừu này. Nhưng cũng vì chăn nuôi nhiều trừu mà nhiều đất đai của
Tây Ban Nha trở nên cằn cỗi vì bị xâm thực. Vào thế kỷ XIX trừu bị bịnh
than (anthrax) và chết rất nhiều ở Pháp và Âu Châu. Nhà bác học Louis Pasteur nghiên cứu vi trùng bịnh than Baccilus anthracis và bào chế ra thuốc chích nhằm chận đứng chứng bịnh tệ hại này hầu cứu vãn ngành chăn nuôi trừu của Pháp.
Ở
các xã hội du mục ở Trung Á, Trung Đông, Phi Châu, sự giàu có được đánh
giá qua đàn dê, trừu hay bò. Dê núi Ibex được người Ba Tư và Ai Cập
sớm thuần hóa. Trong các mộ cổ của vua chúa Ba Tư ngày xưa có tượng dê
Ibex. Hình ảnh dê cũng được tìm thấy trong mộ của vua Ai Cập
Tutankhamun.
Trong ngôn ngữ Việt Nam chữ dê xồm
trở thành một hinh dung từ ám chỉ người đàn ông thích tán tĩnh người
khác phái. Cho đến bây giờ người viết cũng chưa hiểu rõ ý nghĩa bóng
gió của hai câu thơ sau đây:
Dê xồm ăn trái khổ qua,
Ăn nhằm đậu đũa chết cha dê xồm.
Đó
là thức ăn ngon của dê? Hay dê ăn các món đó thì ngã lăn ra chết? Khổ
qua và đậu đũa có hợp chất hóa học gì kỵ nhau? Dê ăn xương rồng có
gai và nhựa vẫn không bị trúng độc. Câu thứ hai nói về đậu đũa Vigna unguiculata? hay so đũa Sesbania grandiflora mà dê ưa thích?
-Trừu tổ cũng có nghĩa tương đương với dê xồm.
- Cà dái dê Solanum melongena là trái cà tím có hình giống ngoại thận của con dê đực.
- Treo đầu dê bán thịt chó là những cụm từ nói lên sự phỉnh gạt của người buôn bán bày hàng tốt nhưng bán hàng xấu.
- Dâm dương hoắc là một loại thảo mộc mang tên khoa học Epimedium grandiflorum được
dùng làm thuốc kích dục dựa vào thói quen của loài dê thường hay tìm
dê cái giao tình sau khi ăn lá cây dâm dương hoắc. Người Trung Hoa gọi
là Yin yang huo (Âm Dương Hoắc) hay Tiên Linh Bì (Xian ling pi).
Chữ Dương trong Âm Dương Hoắc không liên hệ gì đến loài dê cả (Âm -;
Dương +). Chữ Âm (Yin) được âm trại thành Dâm. Người Anh gọi dâm dương
hoắc là horny goat weed (dương giác thảo).
- Dương giác (sừng dê), dương can (gan dê), dương huyết (huyết dê), dương nhu(sữa dê), dương nhục (thịt dê), dương thận (ngoại thận của dê đực) được xem như những bài thuốc bổ dương trong Đông Y.
- Cừu non là từ ngữ ám chỉ người ngây thơ, thiếu kinh nghiệm. Chữ sheep ngoài nghĩa là con trừu con có nghĩa là ngây thơ, nhút nhát.
Tương
truyền rằng năm 1883, lúc vua Hiệp Hòa làm lễ đăng quang, nhà vua thấy
một đàn dê đi qua cầu. Vua cho đó là điềm bất lành vì dê là Dương.
Người Âu Châu kể cả Pháp được gọi là người Tây Dương. Lúc bấy giờ người
Pháp muốn thiết lập nền bảo hộ ở Bắc và Trung Kỳ. Vua Hiệp Hòa muốn
thương nghị với Pháp để loại bỏ ảnh hưởng của hai quan nhiếp chánh lộng
quyền lúc bấy giờ là Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường. Hiệp ước năm
Quí Mùi 1883 (hòa ước Harmand) được ký kết công nhận sự bảo hộ của Pháp ở
Trung- Bắc Kỳ. Hiệp ước vừa ký xong vua Hiệp Hòa bị ép uống thuốc độc
chết. Quan phụ chánh Trần Tiễn Thành bị giết chết tại nhà vì không cùng
đường lối cực đoan với hai quan phụ chánh Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn
Tường.
Từ
khi đề 40 con được phổ biến sâu rộng ở Nam Bộ, dương tộc mang số 35.
Từ đó số 35 tượng trưng cho người có nhiều dương tính thích ve vãn phụ
nữ.
Trong truyện Tàu có Tô Vũ (Su Wu), sứ giả nhà Hán, bị Hung Nô đày lên Bắc Hải chăn dê.
Trong khoa phong thủy (geomancy) Trung Hoa có thế đất Hổ trục quần dương (cọp đuổi đàn dê) được xem là thế đất tốt mang lại lợi lộc và quyền hành.
Văn sĩ Alphonse Daudet của Pháp có viết về dê trong Le Chèvre de Monsieur Seguin. Văn sĩ Rabelais đề cập đến Dê trong Garguantua et Pantagruel.
La Fontaine có bài ngụ ngôn Le Loup et l’Agneau (Chó Sói và Cừu Non) mở đầu bằng câu La raison du plus fort est toujours la meilleure (Lý kẻ mạnh bao giờ cũng thắng) như một chân lý cay đắng phũ phàng bất di dịch với không gian và thời gian.
Capra là tiếng La Tinh chỉ con Dê. Những chữ capri, capric, caprice, capricious(hay thay đổi), Capricorn đều có liên hệ đến dương tộc.
Ở Ý có đảo Capri rộng 14 km2. Vào thập niên 1950, 1960 ở Âu Châu có một loại xe gắn máy hiệu Capri.
Ở Namibia (Phi Châu) có dải Caprivi Strip dài 450 km và rộng từ 30- 105 km.
Capri fig hay goat fig là một loại trái sung mang tên khoa học Ficus carica sylvestris.
Capric acid hay Decanoic acid C10 H20 O2 là ác xít tìm thấy nhiều trong sữa dê. Ác xít capric có mùi khó ngửi. Nó được dùng trong ngành sản xuất nước hoa, đồ plastic, cao su, kỹ nghệ dược phẩm, mỡ dầu cho máy xe.
Goat weed là cây bù xít có mùi rất nồng. Nông dân thường chặt cây bù xít đặt dưới các mô khoai lang để khoai có nhiều củ.
Tiếng Pháp chèvre là con dê. Chèvrefeuille là kim ngân hoa Lonicera japonica.
Trong thực vật học có gia đình dương diệp Caprifoliaceae.
Trong thiên văn học có sao Capricorn tức Dương Tinh. Chòm sao Capricorn nằm giữa chòm sao Sagittarius và Aquarius.
Trong la bàn tử vi Tây Phương sao Capricorn nằm
trên cung thứ 10. Người sinh trong khoảng thời gian từ ngày 22 tháng
12 đến 19 tháng giêng dương lịch chịu ảnh hưởng của sao Capricorn. Người Anh cũng dùng chữ Goat (Dê) để ám chỉ người dâm loạn.
Trong 40 số đề Dê chiếm số 35 sau con Nai (số 34) và trước con Chồn (số 36).
Dê
là một trong 12 con giáp được biết dưới tên Mùi hay Vị. Năm Mùi theo
sau năm Ngọ và đứng trước năm Thân. Năm Mùi là năm Âm (-). Ta có:
- Ất Mùi (1895, 1955, 2015, 2075)- Hành Kim
- Đinh Mùi (1907, 1967, 2027, 2087)- Hành Thủy
- Kỷ Mùi (1919, 1979, 2039, 2099)- Hành Hỏa
- Tân Mùi (1871, 1931, 1991, 2051, 2111)- Hành Thổ
- Quí Mùi (1883, 1943, 2003, 2063)- Hành Mộc
Giờ Mùi kéo dài từ 01 giờ trưa đến 03 giờ trưa
Tháng Mùi là tháng 06 Âm Lịch.
Năm
Mùi ứng vào sao Thiên di (thường hay di chuyển, sống xa sinh quán, làm
công việc có tính cách lưu động v.v.). Người có mắt dê (goat’s eyes) thì cô đơn, ương ngạnh và sớm mồ côi.
Tuổi Hợp Không Hợp
Mùi Mão, Hợi, Ngọ Thìn, Tuất, Sửu, Tí (Chuột)
BIẾN CỐ LỊCH SỬ QUAN TRỌNG VÀO NĂM MÙI CỦA THẾ KỶ XX
- 1907: Phong Trào Duy Tân ở Việt Nam; Trường Đông Kinh Nghĩa Thục ở Hà Nội; hội nghị hòa bình La Haye
- 1919:
Hiệp ước Versailles; sự ra đời của Cộng Hòa Weimar ở Đức; Phong Trào
Ngũ Tứ ở Trung Hoa; Chương Trình Tám Điểm của Nhóm Ngũ Long ở Paris do
Nguyễn Tất Thành (Hồ Chí Minh sau này) mang đến hội nghị Versailles.;
Hoa Kỳ thực hiện chuyến bay vượt Đại Tây Dương lần đầu tiên trên thế
giới; sự ra đời củaCamicia Nera ở Ý (Đội Quốc Gia Chiến Đấu Áo Đen); sự thành lập Tổ Chức Quốc Tế Lao Động (ILO)
- 1931:
Báo động ở Quảng Ngãi dưới sự lãnh đạo của đảng Cộng Sản Đông Dương;
Nhật chiếm Mukden (bây giờ là Shenyang- Thẩm Dương) ở Mãn Châu; tác
phẩm Good Earth của Pearl Buck, nữ văn sĩ
Hoa Kỳ biết nhiều về phong tục, tập quán của người Trung Hoa; Mao Zedong
(Mao Trạch Đông) lập Cộng Hòa Sô viết Giang Tây (Jiangxi)
- 1943:
Trận đánh Stalingrad; quân Hoa Kỳ đổ bộ lên Ý Đại Lợi; Thủy Quân Lục
Chiến Hoa Kỳ chiếm đảo Gilbert tức đảo Kiribati bây giờ (Thái Bình
Dương); hội nghị thượng đỉnh ở Teheran (Churchill- Stalin- Roosevelt);
hội nghị Quebec (Anh và Hoa Kỳ).
- 1955:
Hội nghị thượng đỉnh Anh- Pháp- Hoa Kỳ- Liên Sô ở Geneva; trưng cầu dân
ý ở miền Nam Việt Nam nhằm lật đổ quốc trưởng Bảo Đại (23-10); hiệp ước
Thân Hữu, Hợp Tác và Hổ Tương ký ở Warsaw giữa Liên Sô và 07 quốc gia
Cộng Sản Đông Âu (không có Liên Hiệp Nam Tư- Yugoslavia).
- 1967:
Hội nghị Manila giữa tổng thống Hoa Kỳ Johnson và tướng Nguyễn Văn
Thiệu và Nguyễn Cao Kỳ; hiến pháp đệ nhị VNCH; tướng Nguyễn Văn Thiệu
đắc cử tổng thống; chiến tranh 06 ngày giữa Do Thai- Ai Cập+ Syria+
Jordan.
- 1979:
Chiến tranh biên giới giữa CHXHCNVN và CHNDTQ sau khi quân Cộng Sản
Việt Nam xâm chiếm Cambodia lật đổ chánh quyền Pol Pot theo chủ nghĩa
Maoist; vua Pahlavi của Iran bị lật đổ; Iran trở thành Cộng Hòa Hồi Giáo
Iran; 63 người Hoa Kỳ bị bắt làm con tin.
- 1991:
Chiến tranh vùng Vịnh; đảo chánh ở Liên Sô; Gorbachev bị lật đổ. Ông
trở thành người lãnh tụ Cộng Sản cuối cùng. Liên Sô tan rã.
- 2003:
Phi thuyền con thoi Columbia bốc cháy, 07 phi hành gia tử nạn; Liên
Bang Yugoslavia (Nam Tư) đổi quốc hiệu Serbia & Montenegro; chiến
tranh Iraq do Anh và Hoa Kỳ chủ động; Hu Jintao (Hồ Cẩm Đào) cầm quyền ở
CHNDTQ (chủ tịch và tổng bí thơ đảng Cộng Sản); Trung Quốc phóng phi
thuyền Shenzhou 5 (Thẩm Châu) có người; bức nhiệt ở Paris (44 độ C- 112
độ F- 144 người chết; cựu tổng thống Iraq Saddam Hussein bị bắt ở nơi
sinh quán Tikrit (13- 12).
NHÂN VẬT QUAN TRỌNG SINH VÀO NĂM MÙI
1. Mikhail S. Gorbachev (1931-
) là người lãnh đạo trẻ tuổi nhất ở Liên Sô (54 tuổi). Gorbachev có tư
tưởng cởi mở hơn tất cả các nhà lãnh đạo Cộng Sản ở Liên Sô từ thời
Stalin đến Chernenko. Người ta cho rằng ông chịu ảnh hưởng của vợ ông,
Raisa, người từng dạy ông ở đại học. Thực tế ông Gorbachev ghê sợ chế
độ Cộng Sản. Gia đình của ông là nạn nhân của chế độ và trải qua những
phút kinh hoàng dưới thời Đại Thanh Trừng do Stalin phát động. Đường
danh vọng của ông mở rộng nhờ khả năng và sự nhẫn nhục của ông nhất là
sự giúp đỡ tận tình của ông Andropov, người đồng hương với ông.
Andropov (1914- 1984) là trùm KGB và lãnh đạo của Liên Sô từ năm 1982
đến 1984 sau khi Brezhnev chết. Gorbachev lên cầm quyền với tư cách chủ
tịch nhà nước và tổng bí thơ đảng năm 1985 sau khi Chernenko chết đột
ngột. Ông thực thi perestroika nhằm cải cách kinh tế và xã hội và glasnost tức đường lối cởi mở, lành
mạnh hóa xã hội chống tham nhũng và tệ đoan xã hội. Đối với các nước
Tây Phương ông chủ trương tài giảm binh bị. Năm 1988 Liên Sô rút quân
khỏi Afghanistan. Năm 1989 chế độ Cộng Sản sụp đổ ở các nước Đông Âu.
Đông và Tây Đức thống nhất. Năm 1989 là năm Gorbachev ban hành luật bầu
cử bắt buộc đảng viên Cộng Sản phải ra tranh cử đương đầu với ứng cử
viên không Cộng Sản. Năm 1990 ông được bầu làm tổng thống đầu tiên của
Liên Sô. Cũng năm này ông lãnh giải thưởng Nobel Hòa Bình. Năm 1991
Gorbachev bị đảo chánh. Chế độ Cộng Sản cáo chung ở Liên Sô.
2. Boris Yeltsin (1931-
2007) là tổng thống Nga đầu tiên sau khi chế độ Cộng Sản sụp đổ ở Liên
Sô. Yeltsin xuất thân từ một gia đình nông dân khá giả trước cách mạng
tháng 10. Vì lẽ đó cha ông bị xem là thành phần chống chế độ Cộng Sản
và bị đưa vào trại cải tạo tập trung lao động. Khác với Gorbachev,
Yeltsin không phải là một người học giỏi mà một người hiếu động, thích
thể thao, đánh vật. Vì trộm một trái lựu đạn và vì không biết sử dụng
lựu đạn nên lựu đạn nổ làm có một bàn tay của ông bị mất gần hết các
ngón. Yeltsin được sự nâng đỡ của Gorbachev. Ông là người mạnh dạn xé
thẻ đảng Cộng Sản và công khai chỉ trích Gorbachev cải cách quá chậm.
Khi xe tăng đảo chánh Gorbachev xuất hiện ở Moscow ông đứng trên xe tăng
lên án các quân nhân chủ trương đảo chánh. Cá nhân ông Gorbachev được
an toàn nhưng ông phải từ chức. Liên Sô giải thể. Yeltsin được bầu
làm tổng thống đầu tiên của Liên Bang Nga (1991). Dưới thời cai trị của
ông nước Nga rơi vào tình trạng hỗn loạn, vô trật tự do tệ nạn du
đãng, tứ đổ tường, sự suy lụn kinh tế gây ra. Yeltsin là người nghiện
rượu. Trong cuộc khủng hoảng giữa hành pháp và lập pháp ông giải tán
quốc hội và cho nã đạn bắn vào quốc hội. Năm 1996 ông tái đắc cử.
Nhưng sự lãnh đạo của ông càng ngày càng kém cỏi hơn. Năm 1999 ông từ
chức và chọn Putin xử lý quyền tổng thống cho đến khi tổ chức cuộc bầu
cử khác. Ông mất năm 2007.
3. John Maynard Keynes (1883-
1946) là nhà kinh tế lỗi lạc của Anh giữa hai thế chiến và giáo sư đại
học Cambridge nơi cha ông giảng dạy và bản thân ông từng tốt nghiệp đại
học nổi tiếng này. Ngay từ lúc mới vào lớp mẫu giáo Keynes đã nổi tiếng
về khả năng toán học. Ông đậu cử nhân toán với điểm số cao nhất vào
năm 1904. Giáo sư và là nhà kinh tế nổi tiếng Alfred Marshall khuyến
khích Keynes theo học kinh tế học. Năm 1909 bài viết kinh tế đầu tiên
của Keynes được phát hành. Năm 1911 ông là chủ bút tờ Economic Journal.
Ông Keynes có tham dự hội nghị Versailles năm 1919. Ông khó chịu trước
những đòi hỏi bồi thường quá nặng của Pháp đối với Đức. Ông viết The Economic Consequences of Peace (Những
Hậu Quả Kinh Tế Thời Bình) để tiên liệu những khó khăn kinh tế mà Đức
phải đương đầu sau hiệp ước Versailles. Ông Keynes chỉ trích Anh duy
trì kim bảng vị. Đồng bảng Anh có giá trị cao nhưng gây trở ngại cho
việc xuất cảng hàng hóa Anh, nạn thất nghiệp tăng vọt thời hậu đệ nhất
thế chiến. Trong cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới Hoa Kỳ và Anh bị ảnh
hưởng nặng nề. Kinh tế gia Keynes chủ trương chống tăng thuế, chống
chánh sách khắc khổ, chống việc sụt giảm chi tiêu của chánh phủ. Ông
chủ trương chánh phủ phải can thiệp để chấm dứt khủng hoảng kinh tế, gia
tăng vay mượn nợ và chi xài để tạo công ăn việc làm cho một số tài
nguyên nhân lực thất nghiệp ngồi nhà chịu đói khổ vì không có công ăn
việc làm. Năm 1942 John Maynard Keynes được phong tước quí tộc. Ông
tham dự hội nghị Bretton Woods với Hoa Kỳ và có vai trò quan trọng trong
dự án thành lập World Bank (Ngân Hàng thế giới) và International
Monetary Fund (Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế). John Maynard Keynes mất năm 1946.
4. Benito Mussolini (1883-
1945) là nhà độc tài phát xít Ý gốc là một giáo viên, một hạ sĩ trong
đệ nhất thế chiến. Ông đả kích những sắp xếp của hội nghị Versailles và
thành lập đảng cực hữu cấp tiến gọi là đảng Phát Xít (fascio:
bó, chùm tượng trưng cho sự liên kết, liên minh). Mussolini thành công
trong việc cướp chánh quyền bằng bạo lực năm 1922. Ông có tham vọng
biến nước Ý thành một đế quốc như đế quốc La Mã ngày xưa. Năm 1936 Ý
sáp nhập Ethiopia. Trong ba quốc gia trong phe Trục, Nhật ở Á Châu; Đức
và Ý ở Âu Châu, Ý là quốc gia yếu nhất trong phe Trục. Từ tham vọng
đế quốc Mussolini phải nhờ sự giúp đỡ và bảo vệ của Đức Quốc Xã. Quân
Đồng Minh đổ bộ vào miền Nam nước Ý năm 1943. Mussolini lẩn trốn ở
Salo ở miền Bắc. Năm 1945 ông bị Cộng Sản Ý bắt cùng với tinh nhân là
Clara Petacci. Cả hai bị xử bắn ở làng Giulino di Mezzegra. Thầy của
Mussolini bị treo ngược đầu ở thành phố Milan.
5. Juan Dominico Peron (1895-
1974) là nhà độc tài quân nhân ở Argentina. Ông làm tổng thống ba
lần: 1. từ 1946- 1951, 2. từ 1951- 1955 (bị đảo chánh), 3. 1973-
1974. Ông có ba đời vợ. Bà vợ thứ nhất là Aurelia Tizon chết năm
1938. Bà vợ thứ hai là Eva Duarte là người đã giúp ông trên đường danh
vọng. Người vợ thứ ba là Isabel Martinez. Ông cưới bà Isabel năm 1961
sau khi mất chánh quyền 06 năm. Năm 1955 Peron bị lật đổ. Ông bỏ chạy
sang Panama rồi sống lưu vong ở Tây Ban Nha dưới sự che chở của nhà độc
tài Franco. Năm 1973 Peron về nước và được đắc cử tổng thống. Vợ ông,
bà Isabel, là phó tổng thống. Năm 1974 ông mất. Bà Isabel trở thành nữ
tổng thống đầu tiên ở Tây Bán Cầu. Bà vợ thứ hai và thứ ba của Juan
Peron đều sinh vào năm Mùi và có tên tuổi lớn trên chánh trường
Argentina.
Bà Eva Duarte Peron được biết dưới tên Evita (1919-
1952) là một ngôi sao điện ảnh. Bà trở thành một huyền thoại ở
Argentina. Chính những công tác xã hội và tôn giáo của bà giúp cho
tướng Peron thành công lớn trong sự nghiệp chánh trị. Bà luôn luôn đấu
tranh cho nữ quyền, cho người lao động, cho những người mình trần không
áo che thân (Descamisados). Bà giữ chức
tổng trưởng Y Tế và Lao Động dưới thời tổng thống Peron. Năm 1951 bà
được Peron đưa lên làm phó tổng thống. Năm sau bà mất vì bịnh nan y
trước sự thương tiếc của giới lao động, các nhà hoạt động từ thiện Thiên
Chúa Giáo. Hàng trăm ngàn người tiễn đưa bà đến nơi an giấc ngàn thu.
Giới quân phiệt và thượng lưu giàu có ở Argentina không có thiện cảm
với bà. Evita (Tiểu Eva) là tựa đề của một cuốn phim nói về cuộc đời và những hoạt động xã hội, cứu tế và nhân quyền của bà. Bài hát Don’t Cry For Me, Argentina (Argentina, Xin Đừng Khóc Cho Tôi) nổi tiếng là bài hát tán tụng công đức của bà đối với quê hương Argentina của bà.
Bà Isabel Peron (1931-
) là vợ thứ ba của Peron. Bà là một nữ ca sĩ gặp ông Peron năm 1955 ở
Panama sau khi Peron bị lật đổ. Năm 1961 Peron cưới bà làm vợ và đưa bà
về Tây Ban Nha. Năm 1965 bà Isabel về Argentina móc nối với các ủng hộ
viên của tổng thống Peron. Năm 1973 Peron từ Tây Ban Nha về nước tham
dự cuộc bầu cử tổng thống và được đắc cử. Bà Isabel trở thành phó tổng
thống. Năm 1974 Peron mất. Bà Isabel trở thành tổng thống xứ
Argentina. Khác với bà Evita, bà Isabel là người thất nhân tâm, không
được sự mến chuộng của dân chúng Argentina. Bà không có đường lối hay
chánh sách gì rõ rệt mà mải mê bói toán. Bà áp lực tổng thống Peron
trọng dụng thầy bói José Lopez Raga trong chánh phủ. Ông này điều khiển
tổ chức 3A (AAA) tức Liên Minh Argentina Chống Cộng (Argentina Anti-
Communist Alliance) gây khủng khiếp cho các đảng viên Cộng Sản, những
người tả khuynh thân Cộng và những người đối lập với bà Isabel, chỉ nhắm
mục đích củng cố địa vị cho nữ tổng thống. Năm 1976 quân đội đảo
chánh. Bà Isabel Peron bị cầm tù đến năm 1981 mới được thả và sống lưu
vong ở Tây Ban Nha. Chánh phủ Argentina đòi dẫn độ bà về xứ để làm nhân
chứng về những hoạt động đẫm máu của tổ chức 3A nhưng chánh phủ Tây Ban
Nha từ chối viện lẽ bà đã già yếu (2008).
PHẠM ĐÌNH LÂN, F.A.B.I.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét