Lính thủy sưu tầm và kèm Youtube.
( Dạ cổ hoài lang (Cao Văn Lầu) bd: Ngọc Huyền- Karaoke)Cao Văn Lầu và Bản Dạ Cổ Hoài Lang
Vào
một đêm tối trời cuối năm 1896, có 20 gia đình nông dân nghèo tại xóm
Cái Cui, làng Chí Mỹ, huyện Vàm Cỏ, Long An, vì không chịu nổi cảnh hà
khắc của bọn quan lại địa phương nên đã xuống ghe xuôi về vùng Bạc Liêu
lập nghiệp. Trong số đó có gia đình ông Cao Văn Giỏi, cha Cao Văn Lầu
lúc ấy chưa tròn 5 tuổi (sinh 1892).
Vì sao “Dạ cổ hoài lang” ra đời?
Cha
Cao Văn Lầu là người rất trọng đạo nho, ông “không sợ nghèo, chỉ sợ
không giữ được đạo”. Nên khi đến vùng đất mới, ở tạm dưới mái chùa Vĩnh
Phước An, ông liền gửi Cao Văn Lầu vào chùa học chữ nho. Học được hai
năm, phong trào chữ Quốc ngữ phát triển, Cao Văn Lầu thôi học chữ nho
chuyển sang học chữ Quốc ngữ. Nhờ sáng dạ nên rất được thầy yêu, bạn
mến. Việc học đang tấn tới nhưng đến lớp nhì (nay là lớp 4) thì ông đành
chịu dở dang vì gia đình túng quẩn.
Bia
đình chẳng vơi đi chút khó khăn nào. Thấy vậy cha ông bèn gởi ông cho
thầy giáo dạy đàn ở xóm Rạch Ông Bổn. Ông thầy đàn có tên Lê Tài Khị,
tục gọi Nhạc Khị, nổi tiếng môn nhạc lễ và nhạc tài tử bởi ngón đàn điêu
luyện. Nhờ siêng năng, sáng dạ nên Cao Văn Lầu mau chóng sử dụng thành
thạo các nhạc cụ như đàn tranh, cò, kìm, trống… và trở thành nhạc sĩ
nòng cốt trong ban nhạc của thầy. Ban nhạc hoạt động theo hình thức nhạc
lễ kết hợp với đờn ca tài tử. Nhờ có đờn ca tài tử mà danh tiếng Cao
Văn Lầu mỗi lúc một vang xa. Soạn giả Mộng Vân, một người bạn đồng môn
lập gánh hát mời ông về làm nhạc trưởng. Nhờ đó mà ông có tiền gửi về
nuôi cha mẹ. Theo đoàn hát được vài năm, lúc này Cao Văn Lầu tuổi đã
ngoài 21, cha mẹ bắt ông về cưới vợ. Vâng lệnh cha mẹ, ông lấy cô Trần
Thị Tấn, một cô gái nết na, chất phát ở miệt biển Bạc Liêu.
Để
có tiền cưới vợ, ông phải đi vay 80 đồng của bà Sư Chơn, lãi suất cắt
cổ, mỗi ngày đóng 1,6 đồng. Sau đám cưới, hai vợ chồng phải đi vào rừng
mò củi lụt, xúc tép dưới lung để đủ tiền trả lãi. Suốt ba năm trời quần
quật kham khổ, người vợ gầy héo không thể sinh con. Theo tục xưa: “Tam
niên vô tử bất thành thê”, một quan niệm của lễ giáo phong kiến khắc
nghiệt khiến cho nhiều đôi lứa chia lìa. Vợ chồng Cao Văn Lầu không nằm
ngoài quan niệm ấy, khi mẹ ông bảo: “Con hãy liệu mà kiếm vợ khác để nối
dõi tông đường. Đó là chữ hiếu của con mà mẹ cũng trọn đạo với nhà
chồng”. Nghe qua nghiêm lệnh của mẹ mà ông thấy như trời long đất lở!
Hạnh phúc lứa đôi rồi đây sẽ sụp đổ. Thương cho người vợ hiền tần tảo,
thủy chung nào hay tin dữ. Phận làm con phải lấy chữ hiếu làm trọng, ông
hiểu nhưng chữ tình nào dám rẻ khinh.Sau thời gian chờ đợi không thấy
con trai thi hành nghiêm lệnh, bà nói cho con dâu biết rõ sự tình.
Như
mọi ngày, vợ chồng Cao Văn Lầu vẫn vào rừng mò củi, xúc tép để mưu
sinh. Đến trưa, củi đầy ghe mà tép cũng nhiều. Hai vợ chồng dọn cơm lên
mũi ghe, bất chợt vợ ông nghẹn ngào: “Má không cho mình ở với nhau nữa.
Thôi anh cưới vợ khác, em về với mẹ cha em”. Nói xong vợ chồng gục đầu
nức nở.
Chiều
hôm ấy, vợ chồng đưa nhau ra bìa ruộng, ôm nhau khóc, đến chạng vạng
buộc lòng phải chia tay. Cao Văn Lầu thấy vợ chỉ ôm theo gói quần áo cũ,
ông liền lấy khăn rằn quấn cổ đội lên đầu cho vợ ra đi. Tay lau nước
mắt, chân bước thất thểu ra đồng như đi về nơi vô định. Sau khi vợ đi
rồi, ông như người mất hồn. Một hôm ông sang nhà nhạc phụ tìm vợ, mới
biết vợ ông không trở về. Lòng càng hoang mang, tìm khắp nơi nhưng hình
bóng người vợ hiền vẫn bặt tin. Suốt một năm ròng chẳng biết vợ ở đâu,
ông đành ôm sầu nuốt lệ. Cứ mỗi khi chiều xuống xách đờn ra bìa ruộng,
nơi vợ chồng ly biệt. Nhìn ra đồng mà hình dung bóng vợ thất thểu giữa
trời đêm. Ông gãy đờn theo tâm trạng của vợ lúc ấy, hết Xuân nữ đến Nam
ai rồi Trường tương tư mà lòng chẳng vơi chút sầu thương.
Theo
lời kể của ông Cao Kiến Thiết, con trai trưởng Cao Văn Lầu, ông nói có
lần nghe cha mình tâm sự với bạn bè: “Lúc ấy tôi nghĩ, giờ này vợ mình ở
đâu? Chắc chắn là vợ mình thương mình nhiều hơn mình thương vợ. Số phận
vợ mình sao mà giống thân phận nàng Tô Huệ, quá thương chồng nên dệt
bức Chức cẩm hồn văn dâng lên vua để tỏ lòng nhớ thương chồng. Hay nàng
Tô Thị thương chồng đứng chờ cho đến khi hóa đá. Nên tôi viết bài Hoài
Lang (nhớ chồng)”.
Sau
nhiều tháng làm bạn với cây đàn, bất chợt ông nghĩ: tiếng trống đêm
đánh lên trong khi mình đờn bài Hoài lang. À, phải rồi. Âu là mình lấy
hai chữ Dạ cổ (tiếng trống đêm) thêm vào bản nhạc Hoài lang thành Dạ cổ
hoài lang (đêm nghe tiếng trống nhớ chồng) vậy là hay biết mấy. Thế là
bản Dạ cổ hoài lang ra đời, với 20 câu làm não ruột người nghe *.
Theo
nghệ sĩ Lâm Tường Vân, bài Dạ cổ hoài lang là tiếng nấc của nhạc sĩ tài
hoa Cao Văn Lầu. Để rồi vào một đêm rằm tháng 8/1919, tại làng Vĩnh
Hương, tổng Hòa Thạnh (nay là phường 2, thị xã Bạc Liêu), tỉnh Bạc Liêu,
Cao Văn Lầu chính thức công bố bản nhạc bất hủ của mình. Người may mắn
được ông dạy bản Dạ cổ hoài lang đầu tiên là nghệ sĩ Bảy Cao, kế đến là
Lưu Hoài Nghĩa, rồi lần lượt đến các nghệ sĩ khác và người hâm mộ…
Sau
khi bản Dạ cổ hoài lang ra đời, ông vẫn chưa vơi nỗi buồn thương. Không
thể cam chịu cảnh chia ly, một mình khóc với bài ca. Ông quyết tâm đi
tìm vợ! Ít lâu sau ông tìm gặp vợ ẩn sau mái chùa làm công quả. Cuộc
trùng phùng như được tái sinh. Từ đó ông hay lui tới thăm vợ. Một hôm vợ
ông cho biết đã mang thai, đối với ông hạnh phúc như tràn ngập trên cõi
đời. Tuy vậy ông cũng không khỏi lo âu, bởi nghiêm lệnh của mẹ ông vẫn
còn đó. Nhưng ông vẫn nhất quyết về thưa với mẹ. Mẹ ông nghe qua thay gì
giận dữ, trái lại như bắt được vàng, hối thúc con trai chuẩn bị ghe
rước con dâu trở về.
Bài ca vua của sân khấu cải lương
Từ
khi bản Dạ cổ hoài lang ra đời, nhanh chóng đi sâu vào lòng người mộ
điệu, trở thành bài ca chính thống, bài ca vua trên sân khấu cải lương
Nam bộ. Qua mỗi giai đoạn phát triển trở nên hay hơn và chuyển dần thành
nhiều nhịp. Năm 1924, tăng lên 4 nhịp. Năm 1934 – 1944, tăng lên 8
nhịp. Năm 1945 – 1954, tăng lên 16 nhịp. Năm 1955 – 1964, tăng lên 32
nhịp và từ 1965 đến nay tăng lên 64 nhịp. Và cứ mỗi lần phát triển, bài
Dạ cổ hoài lang không dừng lại ở nguyên bản như các bài nhạc cổ khác, mà
dần biến đổi hình thức, làm thay đổi một phần bộ mặt cải lương. Rõ nét
nhất là từ thập niên 1960, soạn giả Viễn Châu, đã tạo nên mối lương
duyên kỳ lạ, kết hợp Tân nhạc vào Vọng cổ cho ra đời bản Tân cổ giao
duyên, thu hút được khán thính giả tân và cổ nhạc. Điều này chỉ có ở
vọng cổ, bởi lẽ tiếng nhạc du dương và lời ca bình dị hợp với tấm lòng
người Nam bộ. Lúc buồn vọng cổ giúp giải bày tâm sự, vơi đi nguồn tủi,
lúc vui tươi vọng cổ góp phần cho sự kiện hân hoan. Cũng chính bản vọng
cổ đã góp phần mang lại ánh hào quang cho nhiều lớp nghệ sĩ, danh ca,
danh cầm, soạn giả cải lương… góp phần khơi nguồn dòng chảy cho lịch sử
âm nhạc nước nhà.
GS
– TS. Trần Văn Khê, khẳng định: “Trong cổ nhạc Việt Nam, chưa có bài
bản nào được như Dạ cổ hoài lang biến thành vọng cổ. Từ một sáng tác cá
nhân đã biến thành sáng tác tập thể, sanh từ đầu thế kỷ, lớn lên sống
mạnh, biến hóa thiên hình vạn trạng, và sẽ còn sống mãi trong lòng người
Việt khắp năm châu bốn bể”.
Trích nguồn : Mekongculture/Dr Thuan | Mục: Nghệ Thuật
Dạ cổ hoài lang (Cao Văn Lầu) bd: Ngọc Huyền- Karaoke
HAVE A NICE DAY
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét