Tiến sĩ Nguyễn Tường Bách (tại Đức)
Lisboa - Bồ Đào Nha
Bồ
Đào Nha là dân tộc của những người đi biển. Hơn thế nữa, từ xưa, họ là
những người chịu bỏ xứ đi tha hường. Lisboa là cảng biển thiên nhiên duy
nhất của bán đảo Iberia, từ trước công nguyên đã là một trung tâm chính
trị và kinh tế. Lisboa nằm ngay trên cửa biển, hòa nước ngọt của sông
Tejo vào nước mặn của Đại Tây Dương, mênh mông một màu nước, khơi gợi
lòng viễn du của một dân tộc sẵn sàng lên đường. Thực vậy, kể từ thế kỷ
thứ 15, khi tài đi biển của người Bồ Đào Nha lên đến đỉnh cao, quốc gia
này bành trướng thành cường quốc số một ở Châu Âu, chiếm lĩnh nhiều
thuộc địa ở Brazil, Châu Phi, Ả-rập, Ấn Độ và Trung Quốc.
. . .
Năm
1511 thuyền nhân Bồ Đào Nha bắt đầu nhắm đến Trung Quốc và Nhật Bản. Họ
vòng từ miền nam Ấn Độ, đi đường biển dọc theo miền Trung Việt Nam để
lên đảo Macau.
|
Nhà truyền giáo đến với cộng đồng bằng thuyền ở Việt Nam xưa
|
Hẳn
họ đã dừng chân tại Hội An để buôn bán và tiếp tế lương thực, nên năm
1524 họ dựng một tấm bia đá ở cù lao Chàm. Song song, các nhà truyền
giáo lần lượt đến Nhật Bản, Trung Quốc và Việt Nam. Trong những năm cuối
của thế kỷ thứ 16 các nhà truyền giáo Bồ Đào Nha của hai dòng thánh
Francisco và Agustino đến Việt Nam, nhưng cuối cùng bỏ cuộc.
Đầu
thế kỷ thứ 17 các nhà truyền giáo Bồ Đào Nha lại đến Việt Nam một lần
nữa và lần này họ thành công. Dòng Tên* chính thức được thành lập ở Đàng
Trong năm 1615. Đàng Ngoài năm 1627. Trong giới giáo sĩ dòng Tên người
Bồ có một nhân vật xuất sắc, đóng một vai trò lịch sử trong nền văn hóa
Việt Nam, đó là Francisco de Pina. Pina sinh năm 1585, đến Macau năm
1613, đặc biệt rất giỏi tiếng Nhật. Năm 1617 ông đến Đàng Trong truyền
giáo và bắt đầu dịch một số văn bản của Ki Tô giáo ra tiếng Nôm, một thứ
chữ Hán được bản địa hóa.. Thế nhưng Pina nhận thấy các nhà truyền giáo
đồng nghiệp có một khó khăn trầm trọng , đó là họ không sao học được
chữ Nôm. Chàng linh mục trẻ tuổi
Pina thấy chữ Nôm không thể là phương tiện giao lưu với người bản xứ,
ông nghĩ ra một cách đơn giản. Ông thử lắng nghe người Việt phát âm ra
sao rồi dùng mẫu tự la tinh để diễn tả âm tiết theo cách mà tiếng Bồ Đào
Nha thường làm. Đó là thời điểm khai sinh của chữ quốc ngữ chúng ta ngày nay. Theo
lời xác nhận của chính Pina, kể từ năm 1622, ông đã xây dựng một hệ
thống chuyển mẫu tự la tinh cho hợp với thanh điệu và lối phát âm của
tiếng nói Viet Nam. Pina cũng soạn cả một tập văn phạm thô sơ cho loại
chữ viết mới mẻ này. Có lẽ trên thế giới không có nơi nào có một thứ chữ
viết được hình thành trong điều kiện như thế.
Năm 1624 Francisco de Pina mở trường dạy tiếng Việt cho các nhà truyền giáo khác. Trong
số người đến học với ông có hai vị quan trọng, một người đã lớn tuổi là
António de Fontes (1569 -?), sinh tại Lisboa. Vị kia chính là Alexandre
de Rhodes (1591-1660), sinh tại Avignon, Pháp.Hai vị này lãnh hai trọng
trách, de Fontes là trụ cột cho giáo xứ truyền giáo ở Đàng Trong, còn
de Rhodes sẽ ra Đàng Ngoài vào năm 1626, lúc đó trong thời kỳ của Chúa
Trịnh Tráng. Một ngày nọ trong thang12 năm 1625, một chiếc tàu của Bồ
Đào Nha bỏ neo ở vịnh Đà Nẵng, Pina lên tàu để mang hàng hóa vào bờ. Khi
đến bờ chẳng may thuyền chìm, Pina chết tại đó, ông chỉ sống được 40
tuổi.
Sau
cái chết bi thảm của Pina, các nhà truyền giáo Bồ Đào Nha vẫn tiếp tục
xây dựng chữ quốc ngữ mà hai nhân vật có công nhất chính là hai người
Bồ, Gaspar de Amaral (1549-1646) và Antonio Barbosa (1594-1647). Còn
Alexandre de Rhodes thì bị chúa Trịnh Tráng trục xuất năm 1630, phải đi
Macau. Mười năm sau, năm 1640 de Rhodes trở lại Đàng Trong và đến năm
1645 bị Chúa Nguyễn vĩnh viễn trục xuất khỏi Việt Nam. De Rhodes trở về
La Mã và năm 1651 ông cho xuất bản tập tự điển Việt-Bồ Đào Nha-La Tinh
(Dictionarium annamiticum seu tunquinense lusitanum et latinum).
Trong
các đời sau, nhiều người tôn Alexandre de Rhodes là người sáng tạo chữ
quốc ngữ nhưng thực ra đó là công của các nhà truyền giáo Bồ Đào Nha, mà
người đầu tiên phải là Francisco de Pina.
Một
tình cờ của lịch sử đã đưa các vị giáo sĩ Bồ Đào Nha phát minh ra một
loại chữ viết cho cả một dân tộc xa lạ, trong đó họ buộc phải dùng mẫu
tự và âm tiết của ngôn ngữ mình để diễn tả một tiếng nói khác, vốn mang
đầy thanh âm trầm bổng như tiếng chim. Mục đích ban đầu của chữ quốc ngữ
là để cho các nhà truyền giáo nói được tiếng Việt và giao tiếp với cộng
đồng tôn giáo của mình bằng chữ viết. Về sau, khi các nhà cai trị người
Pháp đến Việt Nam, họ cũng không kham nổi chữ Hán lẫn chữ Nôm. Giải
pháp thuận tiện của người Pháp là buộc mọi người Việt Nam phải sử dụng
chữ quốc ngữ và có lẽ đó cũng là lý do tại sao vai trò của Alexandre de
Rhodes được nêu
bật.
Từ 1930 chữ quốc ngữ trở thành chữ viết chính thức của người Việt.
Chú thích: *
Bài viết trích từ chương Những Người Đi Biển, trong tập bút ký "Đường
Xa Nắng Mới" của TS Nguyễn Tường Bách, tên bài viết do blog tự đặt.
¤¤¤
.CHỮ QUỐC NGỮ.
Nhân kỷ niệm 85 năm bãi bỏ chữ Nho (1919) và
80 năm (1924) quyết định đưa chữ Quốc ngữ vào dạy
tại cấp tiểu học Việt Nam
___
Sự ra đời của chữ quốc ngữ -
Cái chết siêu việt của ông Nguyễn Văn Vĩnh
Alexandre de Rhodes (1591 - 1660) |
Nguyễn Văn Vĩnh (1882 - 1936) |
Chữ Hán từng được dùng ở Việt Nam trong vòng một ngàn năm mãi đến tận đầu thế kỷ thứ 20.
Alexandre de Rhodes (sinh năm 1591 tại Avignon, Pháp; mất năm 1660 tại Ispahan, Ba Tư) đã sang Việt Nam
truyền đạo trong vòng sáu năm (1624 -1630). Ông là người có công rất lớn trong việc La-mã hoá tiếng Việt
(nhiều tác giả gọi là La-tinh hóa. Thực ra mẫu tự chữ cái tiếng Việt hiện nay là mẫu tự chữ Roman chứ không phải là chữ La-tinh).
Kế tục công trình của những người đi trước là các tu sĩ Jesuit (dòng Tên) người Bồ Đào Nha như Francisco de Pina, Gaspar d’Amaral, Antonio Barbosa, v.v. trong việc La-mã hóa tiếng Việt, Alexandre de Rhodes đã xuấtbản Bài giảng giáo lý Tám ngày đầu tiên bằng tiếng Việt và cuốn từ điển Việt - La - Bồ đầu tiên vào năm 1651 tại Rome.
*** Hệ thống chữ viết tiếng Việt dùng chữ cái La-mã này được chúng ta ngày nay gọi là chữ quốc ngữ
(chữ viết của quốc gia)
***Nguyễn Văn Vĩnh sinh năm 1882 tại Hà Nội cái năm thành Hà Nội thất thủ vào tay quân Pháp do đại tá Henri Rivière chỉ huy. Tổng đốc Hà NộiHoàng Diệu thắt cổ tự vẫn. Gia
đình Nguyễn Văn Vĩnh nghèo nên không có tiền cho con cái đi học. Lên
tám tuổi, cậu Vĩnh đã phải đi làm để kiếm sống. Công việc
của cậu lúc đó là làm thằng nhỏ kéo quạt để làm mát cho một lớp đào tạo
thông ngôn do người Pháp mở ở đình Yên phụ - Hà Nội.
Vừa kéo quạt, cậu vừa nghe lỏm bài giảng. Cậu ghi nhớ mọi thứ rất nhanh và còn trả lời được các câu hỏi
của thày giáo trong khi các cậu con nhà giàu trong lớp còn đương lúng túng.
Thầy giáo người Pháp thấy vậy bèn nói với ông hiệu trưởng giúp tiền cho cậu vào học chính thức.
Năm 14 tuổi Nguyễn Văn Vĩnh đỗ đầu khóa học và trở thành một thông dịch viên xuất sắc.
Sau đó ông được bổ làm trợ lý cho công sứ Pháp tỉnh Bắc Ninh. Năm
1906, lúc ông 24 tuổi, Nguyễn Văn Vĩnh được Pháp gửi sang dự triển lãm
tại Marseilles. Tại đây, ông được tiếp cận với kỹ nghệ in ấn và báo chí.
Ông còn là người Việt Nam đầu tiên gia nhập hội Nhân quyền Pháp. Trở về Việt Nam, Nguyễn Văn Vĩnh từ bỏ nghiệp quan chức và bắt đầu làm báo tự do.
Năm 1907 ông mở nhà in đầu tiên ở Hà Nội và xuất bản tờ Đăng Cổ Tùng Báo - tờ báo đầu tiên bằng chữ quốc ngữ ở Bắc Kỳ.
Năm 1913 ông xuất bản tờ Đông dương Tạp chí để dạy dân Việt viết văn bằng quốc ngữ.
Ông là người đầu tiên dịch ra chữ quốc ngữ các tác phẩm của
các đại văn hào Pháp như Balzac, Victor Hugo, Alexandre Dumas, La
Fontaine, Molière, v.v. và cũng là người đầu tiên dịch Truyện Kiều sang
tiếng Pháp.
Bản dịch Kiều của ông Vĩnh rất đặc sắc, vì ông không chỉ dịch cả
câu mà còn dịch nghĩa từng chữ và kể rõ các tích cổ gắn với nghĩa đó -
một điều chỉ có những ai am hiểu sâu sắc văn chương Việt Nam (bằng chữ
Nôm),Trung Hoa (bằng chữ Nho), và Pháp mới có thể làm được.
Sự cố gắng và sức làm việc phi thường của ông Vĩnh đã
góp phần rất quan trọng trong việc truyền bá kiến thức và văn hoá
phương Tây trong dân Việt, và đẩy xã hội Việt Nam đi đến chỗ dần dần
chấp nhận chữ quốc ngữ.
Năm 1915 vua Duy Tân ra chỉ dụ bãi bỏ các khoa thi (Hương
- Hội - Đình) ở Bắc Kỳ. Năm 1918 vua Khải Định ra chỉ dụ bãi bỏ các
khoa thi này ở Trung Kỳ và đến năm 1919 bãi bỏ hoàn toàn các trường dạy
chữ Nho, thay thế bằng hệ thống trường Pháp - Việt.
Ngày 18 tháng 9 năm 1924, toàn quyền Đông Dương Merlin ký quyết định đưa chữ Quốc Ngữ vào dạy ở ba năm đầu cấp tiểu học.
Như vậy là, sau gần ba thế kỷ kể từ khi cuốn từ điển Việt – La
- Bồ của Alexandre de Rhodes ra đời, người Việt Nam mới thật sự đoạn
tuyệt với chữ viết của Trung Hoa, chính thức chuyển sang dùng chữ quốc
ngữ.
Đây quả thực là một cuộc chuyển hóa vô cùng lớn lao, trong đó ông Nguyễn Văn Vĩnh đã vô hình chung đóng vai trò một nhà văn hóa lớn của dân tộc Việt Nam.
Ông Nguyễn Văn Vĩnh, tuy nhiên, đã không thể kiếm sống bằng nghề báo của mình.
Ông là người luôn lên tiếng phản đối chính sách hà khắc của Pháp
đối với thuộc địa, là người Việt Nam đầu tiên và duy nhất đã hai lần từ
chối huân chương Bắc đẩu bội tinh của chính phủ Pháp ban tặng, và cũng
là người đã cùng với bốn người Pháp viết đơn gửi chính quyền Đông Dương phản đối việc bắt giữ cụ Phan Chu Trinh.
Vì thế chính quyền thuộc địa của Pháp ở Đông Dương chẳng ưa gì ông.
Tòa báo của ông vỡ nợ. Gia sản của ông bị tịch biên. Ông bỏ đi đào vàng ở Lào và mất ở đó năm 1936 vì sốt rét.
Người ta tìm thấy xác ông nằm trong một chiếc thuyền độc mộc trên một dòng sông ở Sepole.
Trong tay ông lúc đó vẫn còn nắm chặt một cây bút và một quyển sổ
ghi chép: Ông đang viết dở thiên ký sự bằng tiếng Pháp Một tháng với
những người tìm vàng. Khi đoàn tàu chở chiếc quan tài mang thi hài ông
Vĩnh về đến ga Hàng Cỏ, hàng ngàn người dân Hà Nội đứng chờ trong một sự
yên lặng vô cùng trang nghiêm trước quảng trường nhà ga để đưa tiễn ông
Con người bằng tài năng và sức lao động không biết mệt mỏi của Mình đã góp phần làm cho chữ quốc ngữ trở thành chữ viết của toàn dân Việt.
---Tôi đã vẽ bức tranh Sự ra đời của chữ quốc ngữ- Cái chết siêu việt của ông Nguyễn Văn Vĩnh với lòng ngưỡng mộ sâu sắc đối với hai vĩ nhân nói trên của dân tộc Việt Nam –
Alexandre de Rhodes và Nguyễn Văn Vĩnh.
------ Lời cảm ơn:
Tác giả bài viết này biết ơn thân sinh của mình –
nhà giáo Nguyễn Đình Nam, người đầu tiên kể cho tác giả về cuộc đời và sự nghiệp của cụ Nguyễn Văn Vĩnh
từ khi tác giả còn là học sinh tiểu học, khi sách giáo khoa chính thống còn gọi Alexandre Rhodes là
gián điệp còn Nguyễn Văn Vĩnh là bồi bút của Pháp.
Tác giả xin chân thành cảm ơn ông
Nguyễn Kỳ - con trai cụ Nguyễn Văn Vĩnh, và ông Nguyên Lân Bình - cháu
nội cụ Nguyễn Văn Vĩnh vì những câu chuyện xúc động về cuộc sống và sự
nghiệp của cụ Nguyễn Văn Vĩnh cũng như của gia tộc cụ.
Tác giả xin cảm ơn thày Trí - cháu ngoại cụ Nguyễn Văn Vĩnh , đồng thời từng là thày dạy toán của tác giả khi tác giả là học sinh trung học.
Tokyo, 10/11/2004
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét