Bài viết của Nhạc Sỹ Lê
Dinh
Việt Nam hiện nay không có nền tân nhạc mà chỉ có “nhạc nói và nhạc chạy đua” nghi~a là ” nhạc Việt Nam bây giờ toàn là những lời nói khi thì chậm, khi thì thật nhanh như chạy đua”
chẳng có cung điệu trầm bổng du dương gì
cả, và nhạc sĩ chỉ việc theo lời nói lên xuống hay mau chậm này mà viết
nốt nhạc vào đấy là thành một bản nhạc, cho nên chẳng có một bản nhạc
nào ra hồn cả, do dó không có ai thèm nhớ dù chỉ một câu.
Từ 38 năm nay Việt Nam không có một tình khúc nào làm cho người Việt hải ngoại cãm thông, nòi huỵch toẹt ra là ngữi được cả. Sau khi Nhạc sĩ Nguyễn Ánh 9 phê bình “Gào sĩ” Đàm Vĩnh Hưng không biết diễn tả bài hát mà chỉ biết gào hét để câu khách, nay thì Nhạc sĩ Lê Dình lên tiếng về hiện tình tân nhạc Việt Nam mời các bạn xem dưới đây. Đừng có nói rằng vì người Việt hải ngoại ghét cộng sản mà cho rằng cái gì cũng xấu, mà thực tế là chế độ nào sinh ra con người đó, nhạc Việt dưới chế độ bất nhân bán nước thì làm gì có tình cãm như Việt Nam Cộng Hòa trước đây.
Từ 38 năm nay Việt Nam không có một tình khúc nào làm cho người Việt hải ngoại cãm thông, nòi huỵch toẹt ra là ngữi được cả. Sau khi Nhạc sĩ Nguyễn Ánh 9 phê bình “Gào sĩ” Đàm Vĩnh Hưng không biết diễn tả bài hát mà chỉ biết gào hét để câu khách, nay thì Nhạc sĩ Lê Dình lên tiếng về hiện tình tân nhạc Việt Nam mời các bạn xem dưới đây. Đừng có nói rằng vì người Việt hải ngoại ghét cộng sản mà cho rằng cái gì cũng xấu, mà thực tế là chế độ nào sinh ra con người đó, nhạc Việt dưới chế độ bất nhân bán nước thì làm gì có tình cãm như Việt Nam Cộng Hòa trước đây.
Nhạc sĩ Lê Dinh viết về 2 dòng nhạc VN dưới thời VNCH và nhạc XHCN
Nhạc sĩ LÊ DINH
Về âm nhạc, từ 38 năm nay, thành thật và công bình mà nói, chúng ta có thấy sự tiến triển nào trong bộ môn này không, hay là một sự tụt lùi tệ hại từ năm 1975 đến nay, hay nói một cách khác, CSVN đã giết chết âm nhạc Việt Nam.
Nhìn
lại ngày khởi đầu của nền âm nhạc Việt Nam, từ những ca khúc đầu tiên
mà những bậc tiên liệt của nền âm nhạc để lại – được gọi là nhạc cải
cách – như Một kiếp hoa (Nguyễn văn Tuyên & Nguyễn văn Cổn), Khúc
yêu đương (Thẩm Oánh) Bình minh (Nguyễn Xuân Khoát), Bản đàn xuân (Lê
Thương), Tâm hồn anh tìm em (Dương Thiệu Tước), Bóng ai qua thềm (Văn
Chung), Cùng nhau đi Hồng Binh (Đinh Nhu), Thu trên đảo Kinh Châu (Lê
Thương)…, chúng ta thấy, dù đã ra đời hơn 80 năm nay, còn phôi thai,
nhưng âm nhạc VN thuở đó nghe rất có hồn nhạc, lời lẽ tuy không trau
chuốt văn chương, nhưng không khó nghe và lai căng như bây giờ. Chẳng
hạn như bài “Thu trên
đảo Kinh Châu” của Lê Thương, một bài âm hưởng nhạc Nhật thời đó, tuy
được sọan sau, nhưng cũng được coi như là một trong những ca khúc đầu
tiên của gia tài âm nhạc Việt Nam.
Nhắc
lại để chúng ta thấy rằng tuy là những ca khúc đầu tiên, khởi thủy của
nền âm nhạc Việt Nam, nhưng dù đã 83 năm qua, vẫn còn nghe được, hơn
nhạc bây giờ ở trong một nước có tên là Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt
Nam. Chứng minh điều đó là gần một thế kỷ qua mà người ta còn nhớ ca
khúc “Thu trên đảo Kinh Châu” của Lê Thương.
Tiếp
theo thời kỳ âm nhạc phôi thai, hay âm nhạc cải cách, đó là giai đọan
nhạc được gọi là nhạc tiền chiến mà tôi nghĩ rằng vài trăm năm sau đi
nữa, vẫn còn được nhắc nhở tới. Những tác giả như Văn Cao, Đặng Thế
Phong, Hoàng Giác, Dzoãn Mẫn, Hoàng Quý, Nguyễn văn Thương, Phan Huỳnh
Điểu, Nguyễn văn Tý, Dương Thiệu Tước, Thẩm Oánh, Lê Thương… đã để lại
cho chúng ta một gia sản âm nhạc đồ sộ, chỉ trong vòng có 20 năm ngắn
ngủi. Nhắc lại những bài như:
“Tiếng ai hát chiều nay vang lừng trên sóng
Nhớ Lưu Nguyễn ngày xưa lạc lối đào nguyên…”
Hoặc:
Suối mơ, bên rừng thu
vắng
Giòng sông trôi lững lờ ngoài nắng…”
Hay:
Ngoài hiên giọt mưa thu thánh thoát rơi
Trời lắng u buồn, mây hắt hiu ngừng
trôi…”
Hoặc
như:
“Biệt ly, nhớ nhung từ đây
Chiếc lá rơi theo heo may…”
Chúng
ta nghe âm điệu sao mà du dương, uyển chuyển, tha thiết, thấm vào lòng
người. Còn lời ca sao mà lãng mạn, yêu đương, tình tứ ngọt ngào đến như
thế.
Rồi
bước qua giai đọan nhạc kháng chiến (nhạc cách mạng), một lọai nhạc
hừng hực lửa của thời toàn dân đứng lên đánh đuổi thực dân. Những tác
giả tiêu biểu cho lại nhạc hùng tráng như đánh thẳng vào lòng người
này có Phạm Duy, Văn Cao, Lưu Hữu Phước, Hoàng Quý, Lê Yên, Phạm Duy
Nhượng, Phạm Đình Chương, Văn Giảng… Nhưng phải công nhận rằng Phạm Duy
là người có tác phẩm âm nhạc cổ súy tinh thần tranh đấu bài thực nhiều
nhất, hay nhất. Làm sao mà chúng ta quên được, dù 1000 năm sau, những âm
điệu và lời ca như:
Ngày bao hùng binh tiến lên
Bờ cõi vang lừng câu quyết chiến…”
Hoặc man mác căm hờn, như:
“Chiều qua,
tôi đi qua vùng
chiếm đóng
Không bóng trâu cày bên đồng
Vắng tiếng heo gà trên sân
Chiều qua, gánh nước cho Vệ Quốc
Quân
Nghe tiếng o nghèo
kể
rằng:
Quân thù về đây đốt làng…”
Rồi
1954 ập đến, chia hai nền âm nhạc, một nửa phát triển mạnh mẻ ở xứ tự
do, phóng khoáng và một nửa chôn vùi trong chốn ngục tù, sau bức màn
tre. Một số đông nhạc sĩ sáng tác ở miền Bắc ngày trước đã tìm
tự do nơi miền Nam – đất lành chim đậu – cùng chung với những nhạc sĩ
sáng tác đã sống trước đây dưới chính thể Đệ nhất Cộng Hòa, kết hợp
thành một lực lượng sáng tác mạnh nhất, vững chải nhất, nhân bản nhất và
lãng mạn nhất. Thôi thì trăm hoa đua nở.
Nhạc sĩ Văn Phụng
Ngay
từ ngày đầu di cư, chúng ta có những Văn Phụng, Nguyễn Hiền, Y Vân,
Nhật Bằng, Hoàng Trọng, Đoàn Chuẩn, Huyền Linh, Phạm Đình Chương, Ngọc
Bích, Đan Thọ, Xuân Tiên, Xuân Lôi, Trọng Khương, Tuấn Khanh, Hoài Linh,
Phó Quốc Thăng, Phó Quốc Lân, Canh Thân, Vũ Thành, Vũ Huyến, Hoài An,
Thanh Bình, Lê Hoàng Long, Nhật Bằng…, cùng với những nhạc sĩ miền Nam
nổi bật lúc đó, như Phạm Duy (đã có mặt ở Saigon từ 1951), Lam Phương,
Trúc Phương, Châu Kỳ, Nhật Ngân, Trần Trịnh, Anh Việt Thu, Châu Kỳ, Mạnh
Phát, Hoàng Thi Thơ, Nguyễn văn Đông, Hoàng Nguyên, Anh Việt, Phạm Mạnh
Cương, Lê Mộng Bảo, Huỳnh
Anh, Trần Thiện Thanh, Duy Khánh, Khánh Băng, Minh Kỳ, Anh Bằng, Lê
Dinh…
và một số nhạc sĩ trẻ của thời đó như Từ Công Phụng, Ngô Thụy Miên, Trầm Tử Thiêng, Trường Sa, Trường Hải, Đỗ Lễ, Nguyễn Ánh 9, Thanh Sơn, Bảo Tố, Song Ngọc, Dzũng Chinh, Hàn Châu, Mặc Thế Nhân, Hoàng Trang, Đinh Trầm Ca, Giao Tiên, Thăng Long, Đài Phương Trang… hợp thành một đội ngũ sáng tác dưới chính thể tự do của hai nền Cộng Hòa ờ miền Nam từ năm 1954 cho đến năm 1975. ( Hình trên: Nhạc sĩ Văn Phụng )
và một số nhạc sĩ trẻ của thời đó như Từ Công Phụng, Ngô Thụy Miên, Trầm Tử Thiêng, Trường Sa, Trường Hải, Đỗ Lễ, Nguyễn Ánh 9, Thanh Sơn, Bảo Tố, Song Ngọc, Dzũng Chinh, Hàn Châu, Mặc Thế Nhân, Hoàng Trang, Đinh Trầm Ca, Giao Tiên, Thăng Long, Đài Phương Trang… hợp thành một đội ngũ sáng tác dưới chính thể tự do của hai nền Cộng Hòa ờ miền Nam từ năm 1954 cho đến năm 1975. ( Hình trên: Nhạc sĩ Văn Phụng )
Dù
dưới hình thức nào, với bất cứ đề tài nào, nhạc sĩ
của miền Nam tự do cũng viết nên những tác phẩm giá trị, nhất là những
tình khúc và những bài ca ngợi người chiến sĩ VNCH, còn tồn tại, vang
dội cho đến ngày nay.
Nhạc sĩ Nguyễn Hiền
Trong
khi đó, miền Bắc với chính sách bịt miệng và láo khoét, cho nên nhạc sĩ
miền Bắc viết toàn những bài ca tụng bác Hồ (của họ) gàn dỡ, vô duyên,
không thể nào lọt vào tai thính giả được. Chỉ một mình nhạc sĩ Thuận Yến
thôi mà cũng có đến 26 bài ca ngợi bác Hồ. Ngoài ra còn có những Đỗ
Nhuận, Phạm Tuyên, Vân An, Trần Hoàn, Lưu Cầu,Trọng Loan, Phong Nhã, Huy
Thục, Lê Lôi, Chu Minh v.v…viêt những bài nhạc tuyên truyền, đề cao CS
một cách lố bịch. Cả Văn Cao, Lưu Hữu Phước, Phan Huỳnh Điểu, Đỗ Nhuận…
cũng bị lôi cuốn trong việc sáng tác lọai nhạc bưng bô này, như Văn Cao
với “Ca ngợi Hồ Chủ tịch’, Lưu Hữu Phước với “Tình bác sáng đời ta”,
Phan Huỳnh Điểu với “Nhớ ơn bác”, Đỗ
Nhuận với “Bé yêu bác Hồ”… vì không viết để ca tụng, tung hô bác thì
không có gạo mà ăn. Nội cái áo của bác và đôi dép của bác thôi mà cũng
có đến 5 bài hát nói về áo và dép này. Chỉ còn thiếu cái áo lót của bác
thì chưa có nhạc mà thôi.
(Dưới
thời đệ Nhất Cộng Hòa – và luôn cả thời Đệ Nhị Cộng Hòa – miền Nam VN
chỉ võn vẹn có một bài hát duy nhất ca tụng cá nhân vị nguyên thủ quốc
gia mà thôi. Đó là bài Suy tôn Ngô Tổng Thống của Ngọc Bích và Thanh
Nam. Đây không phải là chủ trương của chính phủ đề ra để bắt buộc văn
nghệ sĩ sáng tác ca tụng lãnh tụ, mà đó là ý nghĩ riêng của hai tác giả,
vì muốn mang ơn người đã khó khăn lắm mới đem đến sự an cư lạc nghiệp
cho gần một triệu đồng bào di cư miền Bắc, trong đó có hai tác giả. Đây
chỉ là một hành động để nói lên lòng biết ơn thôi)
Từ
1975 là một sự tuột dốc thê thảm, nhìn thấy và nghe thấy, không cần
phải đắn đo suy nghĩ khi nói về nền âm nhạc ở nước CHXHCN Việt Nam bây
giờ. Không phải nhìn từ bên ngoài rồi chúng ta nói thánh nói tướng, muốn
nói gì thì nói, hay nói để… chống Cộng, nhưng phải nói rằng sự thật là
như vậy. Thử hỏi có ai nghe được hết một câu lời ca trong một bài nhạc
nào đó không? Có ai hiểu ca sĩ hát gì, nói gì trong bài hát đó không?
Còn nhạc thì nghe qua rồi – dù cho nghe 5 lần 7 lượt đi nữa – hỏi có ai
nhớ âm điệu ra sao không, do-ré-mi-fa-sol-la-si thế nào không? Chúng tôi
không nói quá lời đâu. Mở YouTube ra, bấm đại một bài nào đó ở VN ngày
nay, quý vị sẽ thấy ngay lời nói của chúng tôi không mảy
may quá đáng. Bấm đại bài của Cẩm Ly hát đi, thí dụ bài “Chồng xa”,
chúng ta sẽ nghe lời lẻ, văn chương quá buồn cười, trong một bài hát,
nghe sao giống như lời đối thọai trong một vở tuồng cải lương hạng bét:
“Dậy đi mua đồ nấu canh chua
Về cho ba mầy bữa
cơm
trưa…”
Về
âm điệu, chúng tôi đố người Việt tự do ở hải ngoại nhớ một câu nhạc nào
đó, trong một bài hát A, B, C nào đó ở VN bây giờ. Tại sao không nhớ
được? Xin thưa vì đó không phải là âm điệu mà là những nốt nhạc khác
nhau, bỏ chung vào một cái túi và rút ra 5, 6, 7 hoặc 8 nốt, rồi ráp lại
cho thành một câu nhạc thôi. Trong khi đó, thử tình cờ lấy một bài nào
đó
của miền Nam, trước 1975, như:
”Xuyên lá cành trăng lên lều vải
Lòng đất ấm thương tình đôi mươi…”
Hay như:
“Đường vào tình yêu có trăm lần vui, có vạn lần
buồn…”
Hoặc:
“Thượng đế hỡi có thấu cho VN này,
Nhiều sóng gió trôi dạt lâu dài…”
Chúng ta nghe sao mà tha thiết quá, du dương quá và dễ nhớ, dễ thuộc, dễ thương quá, dù cho
cả đời
mình hay một trăm năm sau cũng khó quên được.
Và xin quý vị thử bấm vào tựa một bài hát nào đó của CHXHCNVN ngày nay xem. Thí dụ như bài: “Xin anh đừng” (đừng cái gì mới được chứ?)
Và vô số bài nữa, như Giấc mơ không phải của anh – Anh sẽ không níu kéo
– Anh ba Khía – Ông xã bà xã – Khi cô đơn em nhớ ai – Anh sai rồi –
Quen một ngày cho vui – Em có thể làm bạn gái anh không – Đừng buông tay
anh…, nếu kể thêm, chắc chắn quý độc giả sẽ bị nhức đầu. Tựa đề của một
tác phẩm âm nhạc là như vậy đó sao? Chúng tôi nghĩ tác giả là những trẻ
con, chưa biết nói tiếng Việt hoặc là người đã
trưởng thành nhưng chưa biết viết tiếng Việt. Tựa đề của một bài hát
cũng phải nghe cho được chứ? “Xin anh đừng” rồi thôi, hết.
Về
lời ca, mời quý vị nghe ca khúc “Giá như chưa từng quen”. Mới nghe qua
tên ca khúc, chúng ta liên tưởng ngay đến một bài hát khác của miền Nam
trước 1975, bài “Nếu ta đừng quen nhau”. Cùng một ý, một nội dung, nhưng
người nhạc sĩ miền Nam viết tựa là: “Nếu ta đừng quen nhau”. Bây giờ,
chúng ta hãy xem qua lời ca:
Bài “Giá như chưa
từng quen”:
“Giá như chưa từng quen, chưa quan tâm nhiều về nhau
Người yêu ơi, anh không thể nhớ mỗi lần cách xa…”
Còn bài “Nếu ta đừng quen nhau” có lời ca:
“Nếu ta đừng
quen nhau,
thì đời chưa vướng u sầu
Ngày xanh chưa nhuốm thương đau, màu hoa chưa úa phai màu…”
Chúng tôi để quý vị kết luận. Chúng tôi chỉ thấy “tội nghiệp” cho tác giả bài “Giá như chưa từng quen” mà thôi.
Nếu quý vị muốn nghe thêm nữa, thì đây:
“Vì ngày hôm qua anh đã thấy em ôm hôn một người…
Như muốn cào xé nát tan trái tim anh…”
Đây
là lời ca của bài “Đừng làm anh đau” và xin nói thêm , chỉ có việc “anh
đau” này thôi mà có tới ba bài nhạc khác nhau, của 3 tác giả khác nhau:
“Đừng làm anh đau”, “Em khóc làm anh đau” và “Mưa làm anh đau”. Đó, âm
nhạc XHCNVN là như thế đó.
Về
phần ca sĩ trình bày, mà người bên đó gọi là “thể hiện”, phải nói một
cách công bằng, vì là nơi đông dân số, gần 90 triệu người, thì làm sao
không có ca sĩ hát hay. Nhưng tiếc thay, có một số đông chỉ biết la,
biết hét, hét toáng lên, khiến người nghe không biết họ hát cái gì. Và
còn nữa, họ hay uốn éo ở chữ cuối câu (fioritures), có người còn ẹo ở
giữa câu, nghe rất khó chịu. Việc điểm fioritures này – tức là láy –
người viết nhạc chỉ dùng khi nào thật cần thiết thôi.
Nếu tác giả không có để thêm nốt fioritures thì ca sĩ đừng có tự động láy, tự động uốn éo, tự động ỏng ẹo cho nó lả lướt, như vậy là lả lướt không đúng chỗ, nghe không thể nào chịu được. Người mình có tài hay bắt chước và bắt chước giỏi. Cái uốn éo này xuất xứ từ nhạc Âu Mỹ, nhưng mà với lời ca tiếng ngọai quốc, và cũng tùy thuộc chữ nào, ý nghĩa ra sao, thì nghe được, chứ cứ uốn éo tự do, uốn éo lung tung, bất kể quân thần thì không hợp với lời Việt chút nào.
Nếu tác giả không có để thêm nốt fioritures thì ca sĩ đừng có tự động láy, tự động uốn éo, tự động ỏng ẹo cho nó lả lướt, như vậy là lả lướt không đúng chỗ, nghe không thể nào chịu được. Người mình có tài hay bắt chước và bắt chước giỏi. Cái uốn éo này xuất xứ từ nhạc Âu Mỹ, nhưng mà với lời ca tiếng ngọai quốc, và cũng tùy thuộc chữ nào, ý nghĩa ra sao, thì nghe được, chứ cứ uốn éo tự do, uốn éo lung tung, bất kể quân thần thì không hợp với lời Việt chút nào.
Một
phần việc ca sĩ VN trong nước bây giờ hát khó nghe, lý do cũng tại cách
viết lời ca của đa số những nhạc sĩ “lớp ba trường làng”, “trẻ tuổi
tài cao” của thời XHCN này: chỗ nốt cao thỉ để chữ dấu huyền hay dấu
hỏi, còn chỗ nốt thấp thì để chữ dấu sắc, hay dấu ngã. Viết lời ca như
thế thì chỉ có giết ca sĩ mà thôi, bởi ca sĩ không thể nào truyền đạt
cho thính giả hiểu được mình hát cái gì. Hát mà người nghe không hiểu gì
thì hát làm chi?
38
năm, một thời
gian đủ để những “đỉnh cao trí tuệ” giết chết tất cả, từ chữ nghĩa văn
chương cho đến âm nhạc. Riêng về âm nhạc, họ đã vùi dập bao nhiêu công
lao của những người đi trước, trải qua bao thế hệ, từ thời kỳ âm nhạc
cải cách, đến nhạc mới hay tân nhạc, rồi nhạc vàng (chữ của họ gọi để ám
chỉ nhạc miền Nam từ 1954 đến 1975 mà họ đã cố tiêu diệt nhưng không
được) và nay là nhạc của thời XHCN, của thời:“Dậy đi mua đồ nấu canh chua Về cho ba mầy bữa cơm trưa”.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét