Đào Tiến Thi
Kỷ niệm 223 năm Quang Trung đại phá quân Thanh
Bất cứ ai, chỉ cần
qua ghế nhà trường cấp 2, cũng đều biết chi tiết trưa ngày mùng năm Tết
Kỷ Dậu (1789), Quang Trung cưỡi voi, áo bào xạm đen khói súng, tiến vào
Thăng Long, kết thúc cuộc đại phá 29 vạn quân Thanh chỉ có 5 ngày, sớm
hơn 2 ngày so với dự định (lúc khao quân ở Nghệ An ngày 30 Tết, Quang
Trung hẹn ngày mùng 7 Tết vào Thăng Long mở tiệc ăn mừng).
Nhưng có lẽ ít ai về
số phận của ông vua phản bội Tổ quốc Lê Chiêu Thống và toàn tòng vong
của ông ta sau cuộc thua tan tác này. Chúng tôi xin lược qua 15 năm sống
(và chết) nhục nhã (và phần nào đáng thương) trên đất Trung Quốc của
họ.
Bài viết dưới đây
tổng hợp từ Hoàng Lê nhất thống chí [i] (HLNTC), Bắc hành tùng ký
(BHTK), có tham khảo thêm các giáo trình lịch Việt nam và từ điển mở
Wikipedia. Trong số này đặc biệt chú ý là Bắc hành tùng ký, bởi nó là
cuốn nhật ký của Lê Quýnh, nhân vật quan trọng nhất trong đoàn tùy tùng
của Lê Chiêu Thống, ghi lại những ngày ông bị giam cầm trên đất Trung
Quốc.
Cầu cứu nhà Thanh
Với khẩu hiệu phù Lê
diệt Trịnh, sau khi lật đổ họ Trịnh, anh em Tây Sơn giao lại Bắc Hà cho
vua Lê (1786), rồ rút quân về Nam. Vua Lê lúc ban đầu là Lê Hiển Tông,
sau khi qua đời, Lê Duy Khiêm (Lê Duy Kỳ) được kế vị, hiệu là Chiêu
Thống, năm ấy 21 tuổi.
Nhưng Chiêu Thống
không đủ uy tín và tài năng để cai quản đất nước. Bắc Hà rơi vào loạn
lạc, Lê Chiêu Thống phải hết dựa vào thế lực này đến thế lực khác, từ
Đinh Tích Nhưỡng đến Nguyễn Hữu Chỉnh. Khi Chỉnh bị Võ Văn Nhậm diệt, Lê
Chiêu Thống bỏ chạy sang Quảng Tây, Trung Quốc, cầu cứu nhà Thanh.
Nhân cơ hội ấy, quân
Thanh do Tổng Lưỡng Quảng là Tôn Sỹ Nghị cầm đầu kéo sang. Ngay khi vào
Thăng Long, chúng đã chẳng coi Lê Chiêu Thống ra gì. Vua ta phải hằng
ngày vào chực ở bản doanh của Tôn Sỹ Nghị để nghe lời sai bảo. Tuy vua
Lê đã được phong Vương, nhưng giấy tờ đưa đi các nơi, đều dùng niên hiệu
Càn Long. “Ngày ngày sau buổi chầu, vua lại tới chờ ở doanh của Nghị
để nghe truyền việc quân, việc nước. Vua cưỡi ngựa đi trước, Lê Quýnh
cưỡi ngựa đi sau, quân lính hộ vệ chỉ vài chục người. Người trong kinh
có kẻ không biết là vua. Hoặc có người biết, thì họ nói riêng với nhau
rằng:
"Nước Nam ta từ
khi có đế, có vương tới nay, chưa thấy bao giờ có ông vua luồn cúi đê
hèn như thế. Tiếng là làm vua, nhưng niên hiệu thì viết là Càn Long,
việc gì cũng do viên tổng đốc, có khác gì phụ thuộc vào Trung Quốc?".
Lại có hôm, vua tới yết kiến, Nghị không buồn tiếp, chỉ cho người đứng ở
dưới linh các truyền bảo: "Hôm nay không có việc quân, việc nước gì.
Hãy về cung yên nghỉ!" (HLNTC). Đối với quân
lính và bọn người Hoa ở Việt Nam, thì y lại dung túng cho chúng mặc sức
làm điều phi pháp . Vua Lê tuy biết sự tệ hại ấy, nhưng đã trót mời quân
Thanh sang, chỉ sợ vì việc đó mà làm mếch lòng chúng, nên không dám nói
gì.
Chạy theo tàn quân Thanh
Quân Thanh đại bại,
Lê Chiêu Thống cùng gia quyến và các bề tôi trung thành lại chạy theo
sang Trung Quốc, hy vọng cầu viện nhà Thanh một lần nữa.
Nhưng lúc này, tình
hình đã khác. Quân Thanh, mà thực chất là quân 4 tỉnh gần Việt Nam
(Quảng Đông, Quảng Tây, Vân Nam, Quý Châu), sau những trận Ngọc Hồi,
Khương Thượng, Đống Đa,… đã trở nên khiếp sợ vua Quang Trung và quân Tây
Sơn. Theo Hoàng Lê nhất thống chí, khi quân ta đuổi chúng đến Lạng Sơn,
đã nói phao lên rằng: “Sẽ giết hết rợ Hung Nô”. Do đó, ở đất Trung
Quốc, “dân chúng lại càng nhốn nháo. Từ cửa ải Nam Quan trở về bắc, trai
gái già trẻ, bồng bế dắt díu nhau chạy trốn, suốt vài trăm dặm, lặng
ngắt không còn bóng người” (HLNTC). Tôn Sỹ Nghị bị cách chức, vua Càn
Long cử Phúc Khang An là một người thuộc đội “cờ viền vàng”, được
vua rất tin dùng, làm tổng đốc Lưỡng Quảng, thay
mặt triều đình lo việc kinh lý với An Nam. Ở triều đình thì việc này
giao cho Hòa Khôn (tức Hòa Thân, viên quan nổi tiếng tham nhưng lại được
vua Càn Long tin dùng) trực tiếp phụ trách. Cả hai tên này đều không
thích gì việc đánh Việt Nam.
Mặt khác, sau đại
thắng, Quang Trung tìm cách hòa hiếu. Ông sai Ngô Thì Nhậm thảo thư gửi
Phúc Khang An, nói rõ ta không có ý đánh nhau mà thực ra lỗi thuộc về
Tôn Sỹ Nghị. An bày cho ta đưa vàng bạc đút lót cho Hoà Khôn. Khôn liền
tâu với vua Thanh xin bãi việc binh, phong vương cho Quang Trung. Khôn
nói: "Từ xưa đến nay, chưa có đời nào làm nên công trạng ở cõi Nam.
Nhà Tống rồi nhà Nguyên, nhà Minh, rốt cuộc đều bị thua trận, gương ấy
hãy còn rành rành". (HLNTC)
Ngô Thì Nhậm cho
Nguyễn Quang Thực, cháu gọi Nguyễn Huệ bằng cậu, giả làm Quang Trung,
sang yết kiến vua Thanh, dâng thêm hai thớt voi đực. Dọc đường, người
Thanh phải phục dịch chuyển vận rất khó nhọc. Trong ngoài ai cũng biết
là giả dối, mà không ai dám nói.
Đến Yên Kinh, “vua”
Quang Trung (giả) được đón tiếp rất chu đáo (Càn Long không biết hay
biết nhưng cố tình lờ đi?), được phong vương. Và như vậy số phận Lê
Chiêu Thống đã sắp được định đoạt mà y không biết.
Bị ép gọt đầu gióc tóc
Trong khi ấy, Phúc Khang An giả vờ bảo Lê Chiêu Thống:
“Ngày xuất quân
không còn xa, vương nên tự mình đem tả hữu liêu thuộc làm quân dẫn đường
đi trước. Nhưng bây giờ nên gọt đầu gióc tóc, thay đổi quần áo giống
như người Trung Quốc, để khi về Nam quân giặc không thể phân biệt được,
thì công lớn mới có thể thành. Sau khi khôi phục nước nhà, bấy giờ sẽ
lại theo như tục cũ. "Việc binh không ngại dùng cách xảo trá" Vương nên
nghĩ tới chỗ đó.
Vua Lê cho là phải và đáp:
- Chúng tôi không
giữ được nước nhà, may nhờ thiên triều cứu viện, dù cả nước phải ăn mặc
như người Trung Quốc, cũng xin vâng lệnh. Việc ấy còn có tiếc gì?
Lê Chiêu Thống tưởng thật, vâng lệnh ngay, lại còn nói:
“Chúng tôi không
giữ được nước nhà, may nhờ thiên triều cứu viện, dù cả nước phải ăn mặc
như người Trung Quốc, cũng xin vâng lệnh. Việc ấy còn có tiếc gì?” (HLNTC)
Thế là Khang An bèn
làm một tờ biểu kín tâu với vua Thanh, nói rằng vua An Nam không còn có ý
xin cứu viện nữa, vua tôi đều đã gióc tóc đổi đồ mặc, xin ở lại yên ổn
trong đất Trung Quốc. Vậy xin bãi bỏ các đạo quân định đưa sang đánh dẹp
phương Nam. Hoà Khôn nhân dịp tâu xin phong vương cho vua Quang Trung.
Vua Thanh chuẩn y.
Lừa được Chiêu Thống
rồi, Khang An còn chơi trò làm nhục ông vua lưu vong bằng cách bố trí
cho Chiêu Thống chạm trán phái đoàn sứ bộ của Quang Trung, làm cho Chiêu
Thống rất tức tối.
Sau đó Khang An lại
tìm cách ly gián Lê Chiêu Thống với các bề tôi còn chút tinh thần dân
tộc. Trong số bề tôi này, đáng chú ý nhất là Lê Quýnh.
Nguyên Quýnh đã từng
theo Lê Chiêu Thống sang cầu cứu nhà Thanh năm 1788. Lúc quân Thanh kéo
vào nước ta, Quýnh được dịp thả sức say mê tửu sắc, “ân oán riêng dù bằng cái tơ, sợi tóc cũng đều đền báo không hề sót” (HLNTC).
Khi vua chạy theo tàn quân Tôn Sỹ Nghị, Quýnh được giao ở lại để chiêu mộ lực lượng trong nước.
Tháng 5-1789, Khang An cho trát đòi bọn Quýnh sang “bàn việc nước”. An cho giải Quýnh loanh quanh, mãi tháng 9 mới cho gặp, nhưng rồi “việc nước”
chỉ là ép Quýnh gọt đầu gióc tóc và đổi đồ mặc như người Than mà thôi.
Quýnh cùng hiệp trấn Nguyễn Mậu Nễ, tri phủ Nguyễn Đồng, Trịnh Hiến, chỉ
huy Lê (Doãn) Trị, hàn lâm viện cung phụng Lý Bỉnh Đạo, cả bọn thà chết
chứ không chịu gọt đầu gióc tóc.
Quýnh và nhiều đồng
chí của mình bị đi đày. Trong số này, Nguyễn Đồng bị bệnh chết ở châu
Nam Ninh, Nguyễn Mẫu Nễ chết ở Liễu Châu.
Cuối cùng, Khang An
cũng nói trắng với bọn Quýnh là thiên triều đã phong vương cho Quang
Trung rồi, nay chẳng những nhà Thanh không kéo quân sang giúp nhà Lê mà
bọn Quýnh cũng không thể nào về nước được nữa. Tốt nhất là ở lại Trung
Quốc, An sẽ xin vua vua Thanh bổ dụng.
Nhưng Quýnh chối từ: “Lưu
lại nội địa, không phải sở nguyện của chúng tôi. Vì lưu lại đây, thì bỏ
việc nước không hỏi đến, ấy là bất trung. Bỏ cha mẹ không đoái đến, ấy
là bất hiếu. Phụ những kẻ đồng tâm chết với nước, ấy là bất nghĩa. Lỡ
lòng mong cứu khỏi đầm, chữa khỏi cháy, ấy là bất nhân. Vì nước mà đổi
thành bán nước, ấy là bất trị. Liều mình mà trái lại giấu mình, ấy là
bất dũng, mang đủ sáu điều đó, sao xứng được làm người? Trung Hoa tuy
rộng, cũng không đất dung những đồ chó lợn ấy”. (BHTK).
Quýnh bị đày đi
Quảng Đông (có sách nói là Sơn Đông). Tháng 3-1790, nhân xa giá vua
Thanh đi Đông tuần, Quýnh được gặp Càn Long. Càn Long bảo: "Chúng bay không vì sự thịnh suy mà tiến thoái, khá khen lòng thành giữ trung nghĩa. Trẫm không nỡ khép tội". Nhưng lại vẫn ép: “Chủ
các ngươi đã xin yên ổn ở lại Trung Quốc, lũ các ngươi giốc lòng cùng
theo, thì nên lập tức gọt đầu gióc tóc, đổi đồ mặc để chờ mệnh lệnh” (BHTK).
Nhà Thanh đưa Quýnh
lên Yên Kinh. Tại đây chúng vẫn tiếp tục ép Quýnh gọt đầu gióc tóc.
Quýnh vẫn chống lại. Quýnh thuyết phục bọn quan lại nhà Thanh rằng chữ
trung mình đã không giữ được thì xin cho về phụng dưỡng mẹ già để vẹn
chữ hiếu. Bọn chúng bảo: “Chúa các anh ở đây, mà các anh không theo, thế thì trung được sao?”. Và bố trí cho vua tôi gặp nhau.
Tại cuộc gặp, các quan nhà Thanh cố lấy lời khéo dỗ vua Lê bảo bọn Quýnh cắt tóc. Bọn Quýnh khóc, lạy mà nói rằng: “Bọn Quýnh sống làm tôi nhà Lê, chết làm ma nhà Lê. Ngoài ra thì không phải sở nguyện” (BHTK).
Các quan nhà Thanh mắng: "Mệnh chúa anh, anh cũng không theo. Ấy há là đạo của kẻ làm tôi sao?" (BHTK). Quýnh trả lời: "Bổn
phận kẻ làm tôi thờ vua vốn phải theo mệnh, nhưng cũng phải theo lẽ
buộc đừng theo. Nếu có thể nhờ vậy mà không phục mệnh vua, thì ấy cũng
là theo mệnh vua đó. Nay, cái mệnh bảo cắt tóc, ở miệng thì là mệnh,
nhưng trong tâm thì không phải là mệnh. Bọn Quýnh nguyện theo cái mệnh
trong tâm của chúa mình, kẻo chúa cũng bất đắc dĩ mới phải làm cái sự
(các ngài) yêu cầu đó mà thôi" (BHTK).
Bọn quan nhà Thanh tiếp tục giam lỏng Quýnh. Cuối năm đó lại dụ Quýnh: "Cạo đầu thì vua tôi cha con sẽ đoàn tụ vui vẻ cùng nhau. Sao mà cứ một mực ngây ngốc, không chịu theo gần nhân tình đến thế?". Quan bộ đường đề thẩm, chức thượng thư là Hồ Quý Đường, bảo rằng: "Các anh nếu không cạo tóc thì sẽ chết già trong ngục, chôn thây theo sở nhà tù. Cắn rốn (hối hận) sao kịp?" (BHTK).
Quýnh và ba người nữa tiếp tục bị giam. Đầu năm 1799, Quýnh lại làm tờ tâu:
“Chúa cũ là tôi
con thiên triều. Quýnh là dân của chúa cũ, thì không những nghĩa và lý
đáng phải tránh làm dân Nguyễn Huệ, mà tấc lòng tôi cũng không thẹn. Cúi
xin trời che, đất chở, khí xuân nuôi, lòng bể chứa, bằng lòng cho bọn
Quýnh về làm tên dân ở biên giới Lưỡng Quảng, được qua lại (đường ranh)
buôn bán gần chỗ an trí. May chi được thăm viếng mẹ già và nuôi nấng,
thì không còn điều gì oán tiếc. Nếu sức có thể đem gia quyến tới ở nội
địa, thì cũng xin được tuỳ tiện mà làm..." Quan tả thị lang họ Hùng bảo: "Phải xin cắt tóc và xin cho ở cạnh doanh An Nam. Nếu không như thế, thì sẽ bị đưa an trí ở Nhiệt Hà. Các anh xin điều nào?".
Bọn Quýnh lại trả lời như trước rằng:
"Xin thả ra để đem thân xác về. Được thế thì nguyện cắt tóc để tạ ơn trời. Nếu không được thế, thì xin giữ tóc để hợp lẽ trời" (BHTK).
Tuyệt vọng
Lại nói về Lê Chiêu
Thống, trong thời gian ở Yên Kinh vẫn tiếp tục dâng biểu xin nhà Thanh
cho viện binh về nước khôi phục nhà Lê. Nếu không được thì cũng cho mượn
2 châu Tuyên Quang, Hưng Hóa để xây dựng lực lượng, hoặc lẻn vào Gia
Định cầu viện Nguyễn Ánh. Bọn quan nhà Thanh thì luôn tìm cách dối quanh
để khất lần. Có lúc chúng bảo cho mượn đất Khâm Châu (Quảng Đông), có
lúc bảo cho về Tuyên Quang. Có lần, bực quá, một tên dắt ngựa của vua Lê
là Nguyễn Văn Quyên, phải chửi: “Bọn chó Ngô vô lễ, dám làm nhục vua ta”,
rồi lấy gạch ở sân ném bừa vào bọn chúng. Đám quân lính giữ vườn nổi
giận, xúm lại đánh Văn Quyên gần chết, đoạn bắt giam một tháng, Văn
Quyên nhân thế bị bệnh mà
chết.
Một người con của
Càn Long biết sự tình của vua tôi Lê Chiêu Thống, có ý thương xót, liền
khuyên Hòa Khôn lời lẽ phải chăng. Khôn tâu lại với vua, anh này liền bị
đánh đòn, sau sinh bệnh chết. Từ đấy, vua Lê không còn dám nói đến việc
xin quân cứu viện nữa, nhưng trong lòng uất ức khôn nguôi.
Mùa hè năm Nhâm Tý
(1792), con đầu của vua Lê lên đậu rồi mất. Vua Lê lo buồn sinh bệnh,
thoi thóp nằm liệt không dậy được. Năm sau, bệnh nhà vua càng nguy kịch,
rồi mất (Càn Long thứ 58, 1792), thọ 28 tuổi.
Ngày 11-10, niên hiệu Gia Khánh nhà Thanh (1799), Thái hậu (mẹ Lê Chiêu Thống) cũng mất ở "Tây An Nam doanh". Vua Thanh cho chôn cạnh lăng Lê Chiêu Thống.
Ngày mồng 4-4 năm
Gia Khánh thứ 5 (Canh Thân, 1800), bọn Quýnh được thả ra khỏi ngục, dời
đi ở cách phía tây kinh thành mười hai dặm, tại Lam xưởng an trí ở doanh
Hoả Khí ngoài. Đầu tóc, ăn mặc được phép tự do. Phần mộ chúa cũ, được
phép thăm viếng. Quýnh liền làm một bài thơ, trình quan bộ Hình và quan
coi ngục. Bài thơ có câu rằng:
Kéo tóc khôn đền mưa móc mới,
Ngoảnh đầu sợ phụ núi sông xưa.
Ngoảnh đầu sợ phụ núi sông xưa.
Tuy nhiên khoảng tháng 7-1883 lại bị bắt lại.
Trở về cố quốc
Năm Giáp Tý (1804),
lúc này triều Tây Sơn đã mất, Nguyễn Ánh lên ngôi vua. Nhà Thanh cho Lê
Quýnh cùng các quan tòng vong được đưa di hài Chiêu Thống về táng ở quê
nhà và cho tất cả các người bề tôi trốn theo đều được về nước. Các bề
tôi mở quan tài vua Lê Chiêu Thống (đã quàn 12 năm) thì thấy da thịt đã
nát hết, chỉ có trái tim không nát, mà sắc máu hầu như vẫn còn đỏ tươi!
(chi tiết này ghi trong HLNTC, không rõ thực hư thế nào).
Khi di hài vua Lê
đưa về đến cửa ải, có bà hoàng phi của vua là Nguyễn Thị Kim nghe tin,
liền từ Kinh Bắc lên cửa ải để đón linh cữu. Ngay từ hôm ấy, hoàng phi
tuyệt thực, hằng ngày vật vã bên linh cữu mà khóc lóc. Ngày 23-8-1804,
di hài đưa về đến Thăng Long, các quan thay hài cốt vua Lê sang một
chiếc tiểu khác, thấy trái tim vẫn còn y nguyên.
Tế xong, hoàng phi
đến trước hương án khóc lóc thảm thiết, rồi sau đó, uống thuốc độc tự
tử. Người khắp nước ta và người Trung Quốc đều khen là bậc “tiết nghĩa”.
Các bề tôi trốn theo
vua Lê, về sau, vào năm Tự Đức thứ 14 (1860), được nhà vua cho lập đền
thờ ở phía tây thành Thăng Long, tại phường Thuỵ Chương, thuộc huyện
Vĩnh Thuận. (Có tài liệu cho là ngõ 124, đường Thụy Khê, Hà Nội ngày
nay). Chính giữa thờ Lê Quýnh (thuỵ là Trung Nghị), bên tả 11 vị, bên
trái 11 vị, phía đông thờ 5, phí tây thờ 5. Như vậy tất cả gồm 33 người,
đều được gọi là "Cố Lê tiết nghĩa thần" (các bầy tôi tiết nghĩa đời Lê) và ngôi đền cũng đề là "Cố Lê tiết nghĩa từ" (đền thờ các bậc tiết nghĩa đời Lê).
Theo chúng tôi, Lê Quýnh và một số “tiết nghĩa”
nói trên chỉ đáng khen mỗi việc kiên quyết không gọt đầu gióc tóc như
người Thanh, dù bị tù đày, đe dọa, mua chuộc thế nào, chứ hành động bán
nước là không thể tha thứ. Mặt khác, tình cảnh của họ cũng như vua Lê
những ngày sống lưu vong và bị giam cầm trên đất Trung Quốc cũng có phần
đáng thương. Nhận định về Bắc hành tùng ký, nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng
Na viết: “Tác giả đã ghi lại
tâm trạng đau khổ, uất ức, tủi nhục của mình nói riêng, của vua tôi nhà
Lê nói chung trong những ngày sống trên đất Trung Hoa. Tác phẩm như một
tấm gương phản tỉnh những ai có ảo tưởng "phục quốc" bằng con đường dựa
vào người nước ngoài”[ii].
Đào Tiến Thi
______________________________________________
[i] Hoàng Lê nhất thống chí
là một tác phẩm tuy viết theo hình thức tiểu thuyết chương hồi nhưng
thực chất là một ký sự lịch sử ghi chép người thật việc thật.
[ii] Nguyễn Đăng Na: Văn xuôi tự sự Việt Nam thời trung đại, Nxb Giáo dục, 2001
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét