BẢY CHỤC NĂM (1945-2015) BẢN TUYÊN NGÔN
ĐỘC LẬP ĐẦU TIÊN
Trần Gia Phụng
Cựu Hoàng Bảo Đại
“Ngày 6 tháng 6 năm 1884, khi ông
bác Kiến Phúc tôi còn là ấu quân, quan phụ chánh Vương quốc An Nam đã ký với
nước Pháp, một hiệp ước bảo hộ. Theo điều 16 của hiệp ước nầy, để đổi lại
những ưu quyền dành cho nước Pháp, nước Pháp long trọng cam kết che chở cho
Vương quốc An Nam, bảo đảm an ninh cho Quân vương, Hoàng đế An Nam chống lại bất
cứ nội loạn hay ngoại xâm nào. Thế mà năm 1945, trước sự xâm lăng của Nhật
Bản, và trước cuộc nổi dậy của cách mạng Việt Minh, thì đâu là những lời cam kết
của Pháp?... Vậy thì ai là người đầu tiên đã không làm tròn bổn phận đối với lời
cam kết? Ai làm cho nó lỗi thời, mất hết hiệu lực? Ai đã vi phạm
hiệp ước?” (Bảo
Đại, sđd. tr. 307.)
Vào
nửa đầu thế kỷ 20, trên thế giới, Đức xâm lăng Ba Lan ngày 1-9-1939. Anh
và Pháp quyết định tuyên chiến với Đức ngày 3-9-1939, khởi đầu thế chiến thứ hai
(1939-1945). Đức tấn công Pháp, chiếm Paris ngày 14-6-1940. Yếu thế,
Pháp ký hiệp ước đình chiến với Đức ngày 22-6-1940, theo đó Đức chiếm đóng miền
tây bắc, khoảng 3/5 nước Pháp. Chính phủ Pháp do thống chế Pétain lãnh đạo
chỉ còn khoảng 2/5 nước Pháp về phía nam.
Cũng trong năm nầy, các nước Đức,
Nhật, Ý ký kết Hiệp ước Liên minh tay ba tại Berlin (thủ đô Đức) ngày
27-9-1940, thường được gọi là khối Trục Bá Linh-La Mã-Đông Kinh
(Berlin-Roma-Tokyo Axis). Trong khi Đức và Ý tung hoành tại Âu Châu, thì
Nhật bành trướng ở Á Châu, tấn công Trung Hoa và gây ra cuộc thảm sát kinh
hoàng khi đánh chiếm Nam Kinh năm 1937.
Sau khi Đức xâm lăng Pháp năm 1939,
quân đội Nhật đến Hà Nội năm 1940, áp lực Pháp để cho Nhật đóng quân ở Đông
Dương, ký kết nhiều hiệp định kinh tế có lợi cho Nhật. Từ đó, trên danh
nghĩa, Nhật vẫn để Pháp cai trị Đông Dương cho đến năm 1945 để khỏi lo việc hành
chánh và an ninh Đông Dương, nhưng Nhật hoàn toàn thao túng công việc ở Đông
Dương trong đó có Việt Nam.
NHẬT ĐẢO CHÁNH
PHÁP TẠI ĐÔNG DƯƠNG NGÀY 9-3-1945
Vào năm 1941, hai biến cố quan trọng
làm thay đổi cục diện chiến tranh thế giới và sẽ ảnh hưởng đến Đông Dương:
1) Tuy đã ký hiệp ước bất tương xâm với Liên Xô ngày 23-8-1939 (hiệu lực
trong vòng 10 năm), Đức bất ngờ tấn công Liên Xô ngày 22-6-1941. Liên Xô
vốn thân thiện với Đức, chống lại Anh, Hoa Kỳ. Nay bị Đức tấn công, Liên
Xô ở thế phải chống Đức, quay qua thân thiện với các nước Tây phương. (Vì vậy, ở
Á Châu, cộng sản Việt Nam cộng tác với quân Mỹ.) 2) Ngày 6-12-1941, tổng
thống Hoa Kỳ là Franklin Roosevelt viết thư đề nghị với Nhật hoàng Hirihito (trị
vì 1926-1989) ký hiệp ước bất tương xâm giữa Hoa Kỳ và Nhật, và đề nghị Nhật rút
ra khỏi Đông Dương. (Chính Đạo, Việt Nam niên biểu1939-1975, tập A:
1939-1946, Nxb. Văn Hóa, Houston, Texas, 1996, tr. 125.) Đáp lại, quân đội
Nhật bất ngờ tấn công Pearl Harbor (Trân Châu Cảng) ở Hawaii ngày 7-12-1941, tàn
phá hạm đội Hoa Kỳ ở Thái Bình Dương và giết hơn 2,400 người Hoa Kỳ. Ngày
8-12-1941, Hoa Kỳ và Anh tuyên chiến với Nhật. Ngày 11-12-1941, Hoa Kỳ
tuyên chiến với Đức và Ý.
Quân đội Nhật ào ạt đổ bộ lên miền nam
Thái Lan (8-12-1941), bắc Mã Lai (8-12), tấn công Manila (8-12), đến quần đảo
Luzon (10-12-1941), chiếm Bataan (9-4-1942) và toàn bộ Phi Luật Tân
(5-1942). Tuy nhiên, tình hình thay đổi từ năm 1944. Tướng Charles
de Gaulle (Pháp) trở về Paris ngày 25-8-1944, lập chính phủ Pháp lâm thời ngày
10-9-1944. Chính phủ nầy chống Đức, tức cũng chống đồng minh của Đức là
Nhật. Về hành chính, sau khi chính phủ Pétain thân Đức sụp đổ, nhà cầm
quyền Pháp tại Đông Dương nằm dưới quyền của chính phủ mới ở Paris do De Gaulle
(chống Đức) lãnh đạo.
Cũng từ năm 1944, tại Đông Nam Á, Nhật
bắt đầu thất thế trước sự phản công của quân đội Đồng minh. Ngày
20-10-1944, quân Hoa Kỳ đổ bộ tại Leyte, ở Philippines. Nhật dự tính rút
quân về Nhật. Có thể vì Nhật lo ngại nhà cầm quyền Pháp tại Đông Dương sẽ
theo lệnh tân chính phủ Pháp ở Paris, mở cửa ở Đông Dương cho quân đội Đồng minh
đổ bộ vào Đông Dương, hoặc mật báo cho phi cơ Đồng minh tấn công những vị trí
quân sự của Nhật, nên Nhật ra tay trước, tổ chức cuộc hành quân Meigo,
xóa bỏ nhà cầm quyền Pháp tại Đông Dương.
Ngày 9-3-1945, đại sứ Nhật tại Đông
Dương là Matsumoto Shunichi gặp toàn quyền Jean Decoux tại Sài Gòn lúc 8 giờ
tối, đưa tối hậu thư buộc nhà cầm quyền Pháp phải đặt lực lượng quân sự Pháp
trên toàn cõi Đông Dương dưới sự điều khiển của người Nhật ngay tức khắc.
Decoux kiếm cách trì hoãn, liền bị quân Nhật bắt và đưa đi giam ở Lộc
Ninh. Cuộc đảo chánh diễn ra không mấy khó khăn trên toàn cõi Đông
Dương. Trong vòng hai ngày, quân Nhật làm chủ toàn cõi Đông Dương.
TUYÊN NGÔN ĐỘC
LẬP ĐẦU TIÊN CỦA VIỆT NAM
Đại sứ Nhật tại thủ đô Huế là
Massayuki Yokoyama yết kiến vua Bảo Đại tại điện Thái Hòa (trong hoàng thành
Huế) sáng ngày 11-3-1945, giải thích những hành động mới nhất của Nhật tại Việt
Nam, và tuyên bố muốn đem "châu Á trả về cho người châu Á".
Ông ta còn nói rằng ông ta có "nhiệm vụ dâng nền độc lập " lên vua Bảo
Đại, đồng thời kêu gọi Việt Nam cùng các nước Đông Dương gia nhập khối Đại Đông
Á do Nhật đứng đầu. (Bảo Đại, Con rồng Việt Nam, California: Xuân Thu,
1990, tr. 159.) Khối nầy đã được chính phủ Nhật công bố thành lập ngày
1-8-1940, cách đó 5 năm.
Chiều ngày 11-3-1945, vua Bảo Đại
triệu tập Cơ mật viện, các thượng thư và các hoàng thân hội họp và đưa đến kết
quả là nhà vua cùng các thượng thư Phạm Quỳnh (bộ Lại), Hồ Đắc Khải (bộ Hộ), Ưng
Hy (bộ Lễ), Bùi Bằng Đoàn (bộ Hình), Trần Thanh Đạt (bộ Học), và Trương Như Đính
(bộ Công), đồng ký bản TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP do Phạm Quỳnh soạn như
sau:
"Chiếu tình hình thế giới nói
chung, và tình hình Á châu nói riêng, chính phủ Việt Nam long trọng công khai
tuyên bố, kể từ ngày hôm nay, hiệp ước bảo hộ ký với nước Pháp [năm 1884] được
bãi bỏ, và đất nước thu hồi chủ quyền độc lập quốc
gia.
Nước Việt Nam cố gắng tự lực, tự
cường, để xứng đáng là một quốc gia độc lập, và sẽ theo đường hướng của bản
tuyên ngôn chung của khối Đại Đông Á, hầu giúp đỡ nhau tài nguyên cho nền thịnh
vượng chung.
Vì vậy, chính phủ nước Việt Nam đã đặt
tin tưởng vào sự thành tín của nước Nhật, và đã có quyết định cộng tác với nước
nầy, hầu đạt mục đích nói trên.
Khâm thử
Huế, ngày 27 tháng giêng năm thứ 20
triều Bảo Đại.” [Bảo Đại, sđd. tr. 162)
Do tình hình thế giới biến chuyển và
do sự can thiệp của Nhật Bản, vua Bảo Đại đã lợi dụng thời cơ, tuyên bố từ nay
nước Việt Nam chính thức độc lập. Đây là BẢN TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP ĐẦU TIÊN
của Việt Nam, chấm dứt nền bảo hộ của Pháp đã được thiết lập hơn 60
năm.
Khi đảo chánh lật đổ Pháp, mục đích
chính của người Nhật nhắm chống lại Đồng minh và bảo toàn lực lượng Nhật trên
đường lui quân về nước. Lúc nầy Nhật không còn tham vọng bành
trướng. Vì vậy, khác với người Pháp trước đây ở Đông Dương, người Nhật chỉ
kiểm soát về quân sự, để cho vua Bảo Đại tự trị, không can thiệp sâu vào công
việc nội bộ của Việt Nam. Tuy nhiên nền độc lập Việt Nam lúc đó khá bấp
bênh vì Nhật Bản sắp thua trận, trong khi Pháp vẫn không từ bỏ tham vọng đế
quốc, sẽ kiếm cách trở lui Đông Dương.
PHẢN ỨNG CỦA
PHÁP
Tháng 9-1943, từ Alger Uỷ ban Giải
Phóng Dân tộc Pháp (UBGPDT) (Comité Française de Libération Nationale, lập ngày
3-6-1943 đến ngày 3-6-1944) quyết định cử tướng Charles A. H. Blaizot phụ trách
Đạo quân Viễn chinh Viễn đông, nhắm đến Đông Dương. Ngày 8-12-1943, cũng
từ Alger, UBGPDT Pháp ra thông báo về chính sách đối với Đông Dương, có đoạn như
sau:
“... Với các dân tộc đã biết xác
định cùng một lúc tình cảm yêu nước và ý thức trách nhiệm chính trị của
mình, nước Pháp đồng ý ban hành, trong lòng cộng đồng Pháp, một quy chế chính
trị mới mà, trong khuôn khổ của tổ chức liên bang, những quyền tự do của các
nước khác nhau trong Liên hiệp sẽ được nới rộng và xác lập; tính chất tự do rộng
rãi của các chế độ sẽ được nhấn mạnh mà không mất dấu hiệu của nền văn minh và
truyền thống Đông Dương; những người Đông Dương, cuối cùng, có thể nhận làm bất
cứ công việc gì và chức vụ nào của Nhà nước.
Cùng với sự cải cách quy chế chính
trị nầy, sẽ có một cuộc cải cách quy chế kinh tế của cả Liên hiệp mà, trên căn
bản tự trị về quan thuế và thuế khóa, sẽ bảo đảm sự phồn thịnh của Liên hiệp và
góp phần vào sự phồn thịnh các lân bang...” (Philippe Devillers,
Paris Saigon Hanoi, Paris: Gallimard- Julliard, 1988, tr.
23.)
Tuy hứa hẹn như trên, nhưng sau đó,
khi Đức bắt đầu thua trận, và Đồng minh càng ngày càng thắng thế, thì UBGPDT
Pháp thay đổi thái độ. Ngày 1-2-1944, để chuẩn bị tái chiếm Đông Dương,
tướng Charles de Gaulle ra lệnh cho tướng Charles André Henri Blaizot thành lập
Lực lượng Viễn chinh Pháp tại Viễn đông (F.E.F.E.O = Forces Expéditionnaires
Françaises d'Extrême-Orient), gồm 2 lữ đoàn thuộc địa là Madagascar và Cameroun,
và một đơn vị khinh binh ứng chiến (Corps léger d'intervention). Đạo quân
F.E.F.E.O của Pháp được đặt dưới Bộ Chỉ huy Đông Nam Á (South East Asia Command
= SEAC) do đô đốc người Anh là bá tước Louis Mounbatten điều khiển. (Philippe
Devillers, Histoire du Viêt-Nam de 1940 à 1952, Paris: Editions Du Seuil,
1952, tr. 145.)
Trong cuộc họp của UBGPDT Pháp do De
Gaulle chủ trì tại Brazzaville ở Congo, được xem là thủ phủ của Pháp tại
Phi Châu, từ 30-1 đến 8-2-1944, để thảo luận về các vấn đề thuộc địa sau thế
chiến thứ hai, bản tuyên bố vào cuối Hội nghị có đoạn viết như sau:
“Các mục đích của sự nghiệp thực
dân mà nước Pháp thực hiện tại các thuộc địa đã loại bỏ ý định tự trị, mọi
khả năng tiến hóa ngoài khuôn khổ đế quốc Pháp: cơ cấu một chính phủ tự trị có
thể có tại các thuộc địa dù cho còn lâu mới được thực hiện, phải bị loại
trừ.” (Hoàng Hiển, Vua Duy Tân, Nxb. Thuận Hóa, Huế, 1996, tr.
90.)
Tiếp đó, khi Nhật lật đổ Pháp ở Đông
Dương ngày 9-3-1945, vua Bảo Đại đưa ra bản Tuyên ngôn độc lập ngày 11-3, làm
cho De Gaulle rất tức giận. Gần nửa tháng sau, De Gaulle đưa ra bản tuyên
bố ngày 24-3-1945 về vấn đề Đông Dương như sau:
“Liên bang Đông Dương sẽ hợp cùng
với nước Pháp và các thành phần khác trong cộng đồng thành Liên Hiệp Pháp, mà
nước Pháp sẽ đại diện để đảm trách những quyền lợi ở bên ngoài. Đông Dương
sẽ được hưởng nền tự do riêng trong Liên Hiệp nầy.
Những người thuộc quốc tịch liên bang
Đông Dương sẽ là công dân Đông Dương và công dân Liên Hiệp Pháp. Với tư
cách nầy, họ sẽ được giữ một cách công bằng theo khả năng mọi chức vụ và công
việc liên bang ở Đông Dương cũng như trong Liên Hiệp Pháp, không phân biệt sắc
tộc, tôn giáo, nguồn gốc.
Những điều kiện theo đó Liên bang
Đông Dương sẽ tham gia vào các cơ chế Liên Hiệp Pháp, cũng như quy chế công dân
Liên Hiệp Pháp, sẽ được ấn định bởi Hội đồng lập hiến.” (Charles de Gaulle,
Mémoires de guerre, Le salut: 1944-1946, Paris: Plon, 1959, tr.
439.)
Tuyên bố của Hội nghị Brazzaville năm
1944 cùng tuyên bố của De Gaulle ngày 24-3-1945 cho thấy tham vọng của Pháp là
muốn tái lập nền thống trị tại Đông Dương, về sau sẽ giải thích thái độ im lặng
của chính phủ lâm thời Pháp do De Gaulle lãnh đạo, trước thông điệp kêu gọi giúp
đỡ của vua Bảo Đại gởi các cường quốc, sau khi Nhật Bản đầu hàng 14-8-1945 và
trước khi Việt Minh cộng sản cướp chính quyền.
Tuyên ngôn độc lập ngày 11-3-1945 của
vua Bảo Đại chẳng những bị chính quyền Pháp bất bình, mà còn bị báo chí Pháp chỉ
trích là ông đã phản bội nước Pháp khi tuyên bố độc lập. Về sau, trong một
cuộc họp báo tại khách sạn Ritz ở Paris vào đầu năm 1948, Bảo Đại lúc đó là cựu
hoàng, giải thích:
“Ngày 6 tháng 6 năm 1884, khi ông
bác Kiến Phúc tôi còn là ấu quân, quan phụ chánh Vương quốc An Nam đã ký với
nước Pháp, một hiệp ước bảo hộ. Theo điều 16 của hiệp ước nầy, để đổi lại
những ưu quyền dành cho nước Pháp, nước Pháp long trọng cam kết che chở cho
Vương quốc An Nam, bảo đảm an ninh cho Quân vương, Hoàng đế An Nam chống lại bất
cứ nội loạn hay ngoại xâm nào. Thế mà năm 1945, trước sự xâm lăng của Nhật
Bản, và trước cuộc nổi dậy của cách mạng Việt Minh, thì đâu là những lời cam kết
của Pháp?... Vậy thì ai là người đầu tiên đã không làm tròn bổn phận đối với lời
cam kết? Ai làm cho nó lỗi thời, mất hết hiệu lực? Ai đã vi phạm
hiệp ước?” (Bảo Đại, sđd. tr. 307.)
Như thế, trong khi Pháp gặp nhiều khó
khăn ở Âu Châu, bị Đức xâm lăng và chiếm đóng một nửa phía bắc nước Pháp, thì
Nhật Bản xuất hiện ở Đông Dương, đảo chánh lật đổ Pháp ngày 9-3-1945.
Chính trong hoàn cảnh nầy, dựa vào sự
ủng hộ của người Nhật, ngày 11-3-19-1945 vua Bảo Đại tuyên bố hủy bỏ hiệp ước
bảo hộ Pháp tại Việt Nam ký kết ngày 6-6-1884 dưới thời vua Kiến Phúc (trị vì
1883-1884), và thu hồi chủ quyền quốc gia Việt Nam.
Đây là BẢN TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP
ĐẦU TIÊN của Việt Nam, rất hợp với lòng dân, do chính quyền hợp pháp chính thống
của người Việt Nam lúc đó công bố, chứ không phải do một đảng phái nào đơn
phương quyết định. Bản tuyên ngôn nầy hoàn toàn do người Việt soạn thảo,
không nhờ người ngoại quốc soạn giùm và không vay mượn ý tưởng ngoại lai.
(Trích: Bảo Đại (1913-1997), Toronto: Nxb. Non Nước,
2014.)
TRẦN GIA
PHỤNG
(Toronto,
01-02-2015)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét