MƯỜNG GIANG
Phan Thiết quê tôi, năm nào gần tết
thường không có mưa. Nhưng nếu trời trở chứng trút nhẹ một vài cơn mưa rào ,
thì đã thấy xuân như đang bắt đầu chúm chím trên từng giậu hoa, ngọn cỏ. Ðường
phố bỗng dưng được nước mưa lau chùi sạch sẽ và hữu tình nhất vẫn là nụ cười
của người Phan Thiết, không còn thấy héo hắt, muộn phiền. Những hàng vông, gốc
phượng, những chiếc lá me non cũng phe phẩy, mừng rỡ. Tất cả như cùng xuân mở
hội.
Trong nhà rộn rịp, ngoài ngõ cũng
lao xao, nhất là tại các lò bánh tráng ở Phú Hài, Xóm Lụa, Tân An, Duồng, Phan
Rí Thành và ngay trong thị xã, hoạt động suốt ngày đêm, vẫn không đủ để cung ứng
cho mọi người, vì nhà nào cũng đều cần để cúng và cuộn với măng kho thịt heo và
bánh tét trong ba ngày xuân.
Tết Phan Thiết vui từ những ngày
cuối chạp, mà chủ đích là rủ nhau đi chợ để mua sắm và ngắm người. Bắt đầu từ
ngày 25 tháng chạp, chợ trái cây và hoa đã được hình thành trên hai con đường
Nguyễn Văn Thành và Lê Văn Duyệt, cạnh vườn hoa nhỏ, bên hữu ngạn Mường Giang.
Giáp tết, hoa từ các nơi được đổ về thành phố vô số kể, làm như người Phan
Thiết, chỉ biết ăn tết bằng hoa, mặc sức mà lựa chọn. Thôi thì đủ thứ, từ các
loại hoa bình dân như mồng gà, vạn thọ, trường sanh, cúc, thược dược.. cho tới
các loài hoa vương giả nổi tiếng của Bình Thuận, là hoa Mai với màu vàng phớt,
có năm cánh mỏng mướt như lụa , lúc nào cũng nhè nhẹ muốn chực cười trước gió
xuân. Ðây là người bạn lâu đời của Phan Thiết, vì vậy mỗi độ xuân về, hầu như
nhà nào cũng có một cành mai, dù mua ở chợ hay lặn lội tới rừng xa, núi cao, để
chặt. Hoa bán thật nhiều, có năm thiếu người thưởng thức, nên vào chiều ba mươi
tết, nhiều loại hoa ế ẵm, đã bị chủ vất bỏ, nằm phơi lạnh lùng bên vệ đường ,
mặc cho hoa tàn cánh rũ. Thật thảm thay cho kiếp hoa tàn.
“..Tết nay mình rũ về Phan
Thiết
sống lại mùa xuân tuổi học đường
tháng chạp hăm ba cùng với mẹ
nữa đêm tiển Táo rất thân thương
Hăm nhăm lểnh khểnh mang quà
tết
kính biếu thầy cô khắp phố phường
lấp ló sau lưng me nhìn trộm
cành mai đang hé cánh xuân hương
Chiều hăm chín tết theo chân
chị
mệt lã chen nhau giữa bước người
phiên chợ cuối năm vui đáo để
tiếng cười làm gió cũng chơi
vơi
Quẩn quanh đã bắt đầu đì đẹt
pháo nổ xen trong điệu trống
lân
khắp bếp bề bề măng, cốm, mứt
nhà trên cha vịnh bức tranh
xuân
Giao thừa ngồi đợi chuông
chùa vọng
giữa bước nàng xuân lộng nỏn
nường
hương rợp xiêm y rền nhạc
ngựa
trần gian mở hội đón tiên nương
Hừng sáng cả nhà đi hái lộc
mông mênh đất tỏa ngát hương
trầm
pháo hồng mừng tết bay trăm
lối
bổng tiếng gà vang báo đổi năm
Trời hởi xuân về thương với
nhớ
ngồi đây mà ngóng tết xa mờ
quán khuya vắng bóng người
muôn dặm
tiếng sếu càng thêm mộng ngẩn
ngơ
Giờ đâu còn đủ giòng dư lệ
để khóc mùa xuân lạc bến
chiều
nhớ mẹ nên buồn rầu mộng mị
những ngày tết nhỏ vẹn thương
yêu
(Tết nay ta về Phan Thiết –
thơ MG)
Trước năm 1975, mỗi lần Tết về,
tưởng như cái thị xã nhỏ xíu này sẽ không bao giờ ngủ được trong khoảng thời
gian từ hai mươi tháng chạp cho tới phiên chợ chiều ba mươi tết, vì hầu như ai
củng cố thức để mà đi chợ đêm mua bán hay nhìn người. Ðiều này cũng dễ hiểu vì
dân Phan Thiết quanh năm suốt tháng làm lụng vất vã, từ nghề bờ cho tới bạn
biển. Nhưng khổ nỗi vùng đất này từ xưa đã nổi tiếng là chốn ăn chơi, không
thua gì Sài Gòn-Hà Nội, nên đã có câu phong dao truyền tụng ‘ Bình Thuận là
chốn ăn chơi, cái nồi cũng bán, cái tơi cũng cầm ‘.Bán cầm rồi có tiền mua hay
chuộc trở lại lo gì vì đây là chốn rừng tiền biển bạc. Bởi vậy đừng ngạc nhiên
khi ở đây cái gì cũng khác thiên hạ , nhất là vào dịp lễ hội, cúng tế và vào
dịp tết về. Chính những nét đặc trưng này đã làm cho người Bình Thuận hãnh diện
khi giang hồ khắp chốn. Tóm lại đây là nếp sống của quê tôi, khó có thể thay
đổi.
Ði chợ trong ba ngày Tết để lo cho
gạo nước đầy lu, làm các món ngon vật lạ để ăn nhiều, ăn ngon nên ai cũng phải
đi chợ để mua sắm tùy theo túi tiền. Trong thời gian này, các lò bánh tráng
quanh thị xã tại Phú Long, Lại An, Tân An.. làm suốt ngày đêm, vì khách hàng đã
bắt đầu đặt bánh từ tháng 11 âm lịch. Ðây là món ăn của ngày Tết, dùng để cuốn
thịt kho măng hay bánh tét, nên nhà nào cũng cần. Ở nhà quê, mọi người không
mua bánh mà chỉ tới lò nhờ tráng một hay hai thùng gạo , rồi trả tiền công mà
thôi.
Từ trung tuần tháng chạp, trong khi
tại các phố Gia Long, Ðồng Khánh, Ðinh Tiên Hoàng, Lê văn Duyệt.. bao quanh khu
chợ lớn, đã bắt đầu phân chia lô bán hàng tết, thì hầu như khắp xóm làng , nhà
nhà đều bận rộn đóng cốm hộp, vì đối với phong tục cổ truyền của người Việt
Nam, đây là món ăn đặc biệt , để thờ cúng ông bà trong ba ngày tết . Theo sử
liệu, thì cốm đã theo gót chân khai hoang mở đất của người dân Thuận-Quảng tới
đây. Người dừng lại định cư ở Bình Thuận từ ba trăm năm trước thì cốm cũng
nương theo và trở thành sản phẩm quen thuộc của bản địa
Ăn tết xưa nay , người Bình Thuận dù
túng thiếu thế nào chăng nửa , cũng không dám để thiếu món ‘ bánh tét ‘, trước
dùng để cúng vong linh tiên tổ ông bà , sau cũng là món quà đặc biệt để tặng
thân bằng quyến thuộc và ăn chơi trong mấy ngày đầu năm. Theo các nguồn sử
liệu, thì bánh chưng có hình vuông và dẹp, gói bằng lá dong, rất được thông
dụng tại miền Bắc VN. Còn bánh tét (bánh dầy) là những đòn tròn, gói bằng lá
chuối, là món ăn ưa thích tại Trung-Nam phần. Tuy nhiên dù khác tên gọi nhưng
cả hai đều làm bằng một thứ nguyên liệu giống nhau, gồm nếp và nhân đậu, thịt.
Riêng bánh chưng gói ở Bắc phần có thêm thảo quả và dầu cà cuống nên ăn rất
thơm ngon. Cả hai loại bánh trên đều có xuất xứ từ thời các tổ Hùng dựng nước,
nên nó đã chuyên chở trọn vẹn mọi phong tục tập quán của dân tộc Hồng Lạc qua
bao thế hệ.
Thật vậy, bánh dầy (bánh tét) mang
hình tròn, tượng trưng cho Trời, còn bánh chưng có hình vuông là biểu tượng của
đất. Trong lúc đó các loại nếp, nhân đậu, thịt mỡ.. là nhân sinh vạn vật. Tuy
nhiên ý nghĩa hơn hết , là các lớp lá bọc bên ngoài, như muốn nói lên tinh thần
đoàn kết của dân tộc ‘ lá lành đùm bọc lá rách, nhiễu điểu phủ lấy giá gương,
người trong một nước phải thương nhau cùng ‘.Lại có truyền thuyết cho rằng ,
bánh dầy và bánh chưng được xuất phát từ thời Bắc thuộc, lúc đó người Việt đang
bị giâc Tàu đô hộ , sống cảnh lầm than tận tuyệt, lên rừng kiếm ngà voi sừng tê
giác, xuống sâu mò ngọc trai để bọn tham quan ô lại vơ vét mang về nước sống
giàu sang phú quý. Do đó mọi người luôn sống cảnh lầm than, nhiều khi phải bỏ
làng xóm quê hương trốn lánh giặc Tàu đuổi giết cướp bóc. Vì không thể mang
theo lúa gạo lúc chạy loạn, nên mới có sáng kiến nấu thành bánh , đem giấu dưới
mương ao, đợi lúc thanh bình, trở về quê nhà có cái ăn tránh được nạn đói.
Năm Kỷ Dậu (1789), Ðại đế Quang
Trung (Nguyễn Huệ). trong cuộc hành quân thần tốc từ Trung ra Bắc Hà, để tiêu
diệt hai chục vạn quân Thanh do Tôn Sĩ Nghị cầm đầu, được Lê Chiêu Thống dẫn về
tàn phá quê hương. Chính ngài đã dùng bánh tét, để làm lương thực cho quân sĩ
trên đường hành quân bắc tiến. Nhắc đến bánh tét, làm sao quên được những tối
cuối năm thời tuổi nhỏ, cùng với gia đình quây quần trước nồi bánh đang sôi
sùng sục trên bếp lửa hồng, vừa châm thêm cũi và đảo lộn các đòn bánh trong nồi
cho chín đều, vừa len lén nhìn cánh mai vàng cắm trong chiếc bình cổ trên phòng
khách, để rình hoa đã mãn khai rồi hay chưa, vì ai cũng hy vong mai nở cho kịp
với nàng xuân nõn nường kiều diễm , đang lồ lộ nơi ngưỡng cửa hạnh phúc vui
vầy.
Phan Thiết ngày xưa, tuy không phải
là chốn phồn hoa đô hội nhưng vẫn là nơi thị tứ qui tụ người khắp mọi miền đất
nước, nên chuyện ăn uống trong ba ngày tết rất đa dạng và cầu kỳ, không những
là người Việt mà còn có nhiều khác biệt giữa người Việt gốc Hoa, trong năm bang
hội sinh sống tại địa phương. Tuy nhiên dù là ai chăng nửa, với người Việt, nồi
thịt heo kho măng khô, vẫn được coi là quan trọng hơn hết. Với người Phan Thiết
gốc đồng bằng sông Cửu, thì có nồi thịt heo kho Tàu với nước dừa, ăn cùng dưa
giá có trộn thêm cà rốt, lá hẹ, ớt xắt sợi và cuống củ cải. Thịt được dùng để
kho, phải là thứ thịt heo ba rọi vừa nạc lẫn mỡ. Kho nồi thịt ngon, đòi hỏi phải
có kỹ thuật làm bếp giỏi, để sao cho lúc chín , phần nạc thì đỏ au đẹp đẽ, còn
lớp mỡ da căng nở ra mềm mại. Có như vậy mọi người ăn liên tiếp món này trong
suốt mấy ngày Tết, vẫn không thấy ngán, ngược lại mỗi lần nhìn tới đã thấy
thèm.
Rồi còn phải thêm vài hủ củ kiệu
muối với tôm khô, loại lạt muối, thứ này giúp các chàng đưa cay khi đối tửu.
Riêng củ cải thì dùng chung với bánh tét, được gói bằng thứ bánh tráng mỏng,
được sản xuất từ các lò Phước Thiện Xuân, Xóm Lụa, Cây Chôm. Với các gia đình trung
lưu, thì các bửa ăn ngày tết, không bao giờ thiếu món khổ qua dồn thịt bầm trộn
với tôm quết nhuyển. tuy nhiên có nhiều người tin dị đoan, nên không dám ăn món
này trong ngày tết, vì sợ lại khổ quá cả năm mới. Vì người Bình Thuận là hậu
duệ của người cả nước, nên món ăn nào cũng phong phú, kể cả các món ngọt thì
không làm sao đếm hết được như món xôi vị gốc Quảng, có pha lá dứa hay lá cẩm.
Còn mứt thì đủ loại, từ gừng cay, dừa bí, cà chua, hạt sen cho tới món mứt me
thượng lưu, mứt nào của người Phan Thiết, cũng ngon tuyệt diệu.
Từ thập niên 70 về sau, mổi lần tết
về người trên phố không gói bánh ít ở nhà, mà mua ngoài chợ về để cúng, cùng
với các loại bánh in Hải Dương, bánh bò bông, bông lan. Nhưng ăn uống cầu kỳ
hơn hết, vẫn là người Phan Thiết gốc Huế hay Bắc. Bởi vậy nhà nào tết đến, hầu
như cũng có giò lụa hay chả Huế, giò thủ, thịt đông chân giò hay thịt gà nấu
đông. Nhưng hấp dẫn hơn hết đối với dân chơi cầu ba cảng, ngày xuân cử món nai
đồng quê, thì đó là món giả cầy, sản phẩm Bắc Hà, dùng giò heo cạo sạch lông ,
đem thui, chặt khúc nấu với riềng mè, vì lạ miệng nên ai cũng thích, ăn hoài
không ngán.
Tết nay em có về Phan Thiết
có ghé trường xưa, viếng mộ
thầy
đây nén hương lòng người lính
cũ
cũng là lệ nhớ xót thương cay
Có vào tửu quán vui cùng bạn
chuốc một bầu riêng cúng tưởng
người
những lính cùng dân chung bất
hạnh
vì đời mà đổ máu thây phơi
Có xuống Cồn Chà ăn cá mực
thăm giùm người bạn biển quê
tôi
thảm ơi một kiếp đời mưa gió
vẫn áo mê tơi suốt một đời
Có qua phố chợ khoe quần áo
bớt một vài xu giúp kẻ nghèo
người phế binh bò trên gạch
lạnh
tủi buồn cô quạnh nắng mưa
treo
Có đi ngắm cảnh tìm thơ vị
đừng bỏ quên Cây Táo, Phú
Long
Dốc Căn, Kim Hải, Ðoàn Mạnh
Hoạch
những địa danh xưa đẳm máu
hồng
Có vào lễ Phật trên chùa Cú
hay ghé thăm Cha tại giáo đường
tìm lại giùm tôi hương phấn
cũ
của thời tuổi học lắm thương
vương
Có gặp bạn bè còn sống tủi
xin em chia bớt một phần vui
xin em lau lệ đời phân cách
để nguyện cho nhau bớt ngậm
ngùi
Có mua quà tặng khi về Mỹ
xin nhớ cho tôi chút vị làng
hơi đất , mùi rơm, tình biển
mặn
thương hoài mà vẫn cứ miên
man
(xin
hãy cho tôi chút vị làng – thơ MG)
Ðối với người Phan Thiết gốc Hoa ,
ăn tết cũng có nhiều khác biệt. Bởi vậy đừng tưởng các ông bà Tứ Hải, Nhiêu Bá,
Cẩm Xìn, Phúc Châu, Liền Hến, Thiên Sanh Ðường, Thọ Như Khương, Ðại An Hòa, Lâm
Phùng Xuân.. tất cả là người Trung Hoa, nên nhà nào ăn tết cũng giống nhau.
Không đâu, họ ăn uống theo tập quán bản địa, mà cha ông đã mang từ bên Tàu sang
qua bao đời.
Người Việt gốc Hoa Quảng Ðông, ba
ngày tết thế nào cũng phải có các món lạp xưởng làm bằng thịt heo ướp ngủ vị
hương hay loại hảo hạng tẩm rượu mai quế lộ, rồi lạp xưởng gan heo hay thịt vịt
khô loại lạp áp hay bắc thảo, lạp dục, tức là món thịt heo ba chỉ cắt sọc từng
dãi phơi khô. Thịt vịt khô hay heo khô dem hấp với gừng lát, là món ăn chính
trong ba ngày đầu năm mới. Ðặc biệt nhất là nhà nào dù giàu hay nghèo, cũng
phải có con gà mái để cúng vào giờ đón giao thừa, còn ngày mồng hai tết phải
làm con gà trống thiến để cúng mở cửa hàng hay xuất hành. Với những nhà giàu
có, ngày tết còn có thêm món bát bửu gồm bong bóng cá, tóc tiên, hạt sen, náạm
đông cô, táo đỏ, củ năn và bún Tàu. Ðể lai rai đưa cay, dĩ nhiên chẳng bao giờ
thiếu các món nhắm như tôm khô, hột vịt bắc thảo, củ cải muối và thịt đùi heo
hun khói. Còn trên mọi bàn thờ, thì thế nào cũng có ổ bánh tổ ngoài bọc giấy
điều, có in các chữ phước hay đại cát, bằng mực Tàu mạ hoàng nhũ. Tóm lại nét
đặc trưng của người Việt gốc Quảng Ðông, là là ngày tết không bao giờ giết vịt,
vì sợ tiếng kêu ‘ cạp cạp ‘, gây xui xẽo năm mới.
Còn người Việt gốc Triều Châu là
nhóm người Trung Hoa đông thứ hai tại Phan Thiết. Tuy người Triều Châu cũng cư
trú trong tỉnh Quảng Ðông nhưng địa bàn của họ nằm giữa ba tỉnh Quảng Ðông,
Quảng Tây và sát với Phúc Kiến. Vì vậy tiếng nói của họ thuộc ngữ hệ Hạ
Môn-Phúc Kiến. Ðó cũng là lý do giữa hai nhóm di dân, có rất nhiều khác biệt,
chẳng những về sự cạnh tranh nghề nghiệp mà còn liên hệ tới tập quán và đời
sống xã hội. Trước ngày 30/4/1975 , giữa hai nhóm Tiều và Quảng Ðông sống tại
VN, không bao giờ kết thông gia. Bởi vậy chúng ta cũng không ngạc nhiên về sự
khac biệt giữa hai nhóm trong việc cúng kiến và ăn uống vào những ngày tết.
Trong khi người Việt Quảng Ðông
kiêng vịt, thì tết là dịp để người Tiều ăn vịt lấy hên đầu năm. Tại Bình Thuận,
vịt được nuôi nhiều tại Tường Phong, Ðại Nẩm, Phú Hội, Phú Lâm.. trong những
cánh đồng đã gặt xong nhưng chưa kịp cầy bừa vào dịp đông-xuân tới. Thế rồi sau
hai tháng khổ cực, bôn ba khắp các cánh đồng dưới nắng mưa, để hết lòng vổ béo
đàn vịt hơn ngàn con , sao cho kịp tới trung tuần tháng chạp là có vịt thịt để
bán. Trong thời gian này, xe thồ, xe lam.. đêm ngày từ Phan Thiết tới các lò ,
để mua vịt và trứng. Trong cái không khí tĩnh mịch của làng quê , tiếng vit kêu
cạp cạp thay thế tiếng Sếu biển báo tết sắp về.
Với người Việt, nhà nào từ 20 tháng chạp trở
đi, hầu như đều có sẳn cặp vịt với vài chục trứng, để cúng đưa ông Táo về trời
vào chiều hăm ba . Với người Việt gốc Triều Châu, thì bất cứ nhà nào trong ba
ngày tết, cũng phải có món vịt ram. Món này, vịt làm xong đem luộc vừa chín,
vớt ra chặt thành từng miếng lớn, rồi bỏ vào trong chảo mỡ đang sôi sùng sục .
Riêng nước luộc vịt, được dùng để nấu xôi đậu phộng, dùng để ăn chung với thịt
ram trên. Có một số người Tiều lớn tuổi, ngày tết vẫn còn giữ tập quán của tổ
tiên bên Tàu, là ăn thịt ngổng chung với vịt, đầu heo muối hun khói các mía.
Tóm lại món ăn ngày tết của người Phan Thiết thật đậm đà, ngoài các món thổ
nhưởng đặc trưng như cốm, banh rế, bánh tráng mè dầy hay bánh căn ăn với cá
kho.. là những hương vị để đời mà ta không làm sao quên được, nhất là nhà lại
có thêm bánh tổ chiên, bánh tét giòn ăn với cá thu kho dưa món. Và còn chả tôm,
tré, nem, giò lụa, bao nhiêu món ngon vật lạ của một thời quê hương hạnh phúc,
trước khi VC từ rừng vào cưởng chiếm Phan Thành..
Từ khi sống đời phiêu bạt, năm nào cũng
vậy hễ gần tới những ngày cuối năm thì lòng ta lại bâng khuâng lo lắng nhưng
không biết là mình đã lo lắng bâng khuâng điều gì, vì Tết Dương lịch nơi xứ người
cũng đã qua trong lặng lẽ buồn rầu, còn xuân quê mình thì nghìn trùng xa cách.
Vui buồn, mong đợi hay mơ ước, tất cả cũng chỉ còn là kỷ niệm của một thời xa xưa
thân ái, với những cái tết thật êm đềm, dù đất nước lúc đó đang hồi lửa loạn.
Nhưng mặc kệ, mọi người vẫn bận rộn lo sắm tết, khi mùa đông sắp tàn, nhường
chỗ cho nàng xuân kiều diễm nõn nường, đang lồ lộ bước vào ngưỡng cửa đời.
Ôi giấc mơ xưa, chưa chi đã dẫn ta
về thôn xóm cũ, những ngày xuân tết vẹn vầy, những niềm vui thơ dại, trên từng
trang lưu bút của một thời tuổi trẻ đã phai tàn, nay không biết có ai còn nhớ
hay không ? Bao chục năm qua rồi, những ngày sắp tết lại buồn, nhất là lúc đứng
nhìn mưa phùn, nhỏ những giọt trắng, trên từng cánh cúc vàng nơi thềm gió
Lại một tối ba mươi buồn sắp tới,
một đêm giao thừa nơi xứ người. Trong giây phút thầm lặng trước ngưỡng cửa đời,
bỗng dưng buồn rầu tự hỏi, cho tới khi nào ta mới chấm dứt được cái thân phận
không nhà cửa, phải khóc thầm suốt một phần đời lưu lạc, mỏi ngóng về bên kia
bờ Thái Bình Dương, mà rưng rưng thương nhớ Phan Thiết. Trong nổi cô đơn hằng
hằng, người lữ khách chỉ còn biết yên lặng, nép mình dưới các hàng hiên ngoài phố,
cùng với bóng tối của đêm ba mươi Tết, để ngậm ngùi tưởng tượng về chốn quê xa,
trong cái khoảnh khắc năm cũ sắp tàn, gia đình mình chắc cũng đang cài chặt
then cửa, để đón mừng năm mới. Không biết trong nổi hạnh phúc đó, có ai còn nhớ
tới người lính già cô đơn ngoài quan tái.
Rồi
cũng tết cũng mùa xuân viễn xứ
đời chinh nhân sao lắm nổi đoạn trường
xưa những mùa tết ngập lệ đau thương
nơi đồn vắng, hố cá nhân chờ giặc
Ðêm giao thừa một mình buồn hiu hắt
ngậm ngùi cùng chiếc bóng chúc tân niên
loay hoay tìm đâu thấy một ai quen
chỉ tiếng nhạn kêu sương ngoài quan tái
Sáng mùng một chờ thư em mòn mõi
đứng lại ngồi trông mây nổi mù bay
cuối quê xa thương mẹ ngóng đêm ngày
chờ thằng con lính, trăm lần lổi hẹn
Nhưng mẹ ơi nơi này xuân nào đến
với những hồn ma lạnh quẩn quanh đây
bên suối ngàn róc rách gió lã lay
têt muôn dặm năm qua buồn muốn khóc
Tàn chinh chiến tưởng không còn chết chóc
đâu ai ngờ thảm tuyệt vẫn muôn phương
xưa banh xác vì bom đạn chiến trường
nay gục úa bên đòn roi đói bệnh
Xưa đồn vắng chờ xuân xuân không đến
nay trong tù không muốn tết vẫn sang
đời gì đâu sao tàn nhẫn bẽ bàng
kiếp lính trận cứ ngậm ngùi cô quạnh
Mùng một tết góp cơm canh trà bánh
nén hương lòng nhớ bạn chết thảm đơn
tuổi hoa niên mà đã bỏ trần gian
nằm với đất bên đường sầu cỏ úa
Nay xứ lạ một lần xuân tới nữa
tết không nhà hiu quạnh vắng người thương
vẫn tỉnh say nơi quán lẽ bên đường
chờ bạn tới cụng ly mừng xuân thắm
Nhưng họ đã chết queo ngoài muôn dặm
kể từ mùa chinh chiến bỏ trường xưa
chỉ còn ta buồn bã kiếp sống thừa
bao chục năm héo cùng xuân viển xứ
(thêm
một lần xuân qua – thơ MG)
Viết
từ Xóm Cồn Hạ Uy Di
Chạp
2014
MƯỜNG
GIANG
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét